Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản tháng 11 ước đạt 2,4 tỷ USD, nâng tổng giá trị xuất khẩu 11 tháng năm 2012 ước đạt 25 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước.
Trong số các mặt hàng nông sản chính, đáng chú ý có càphê, sắn và các sản phẩm từ sắn có sự tăng trưởng mạnh cả về giá trị và sản lượng so với năm trước. Cụ thể, tổng khối lượng càphê xuất khẩu 11 tháng đạt 1,56 triệu tấn với trị giá 3,33 tỷ USD (tăng 42% về lượng và 37,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước). Giá càphê xuất khẩu bình quân đạt 2.133 USD/tấn.
Trong năm 2012, thị trường Indonesia tăng trưởng đột biến với mức tăng gấp 8,4 lần về lượng và tám lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2011. Ngược lại, Bỉ - thị trường lớn nhất nhập khẩu càphê của Việt Nam trong năm ngoái lại có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị (chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm trước). Theo dự báo, xuất khẩu càphê trong những tháng tới có thể tăng do nguồn cung sẽ tăng mạnh khi vụ thu hoạch bắt đầu vào tháng cuối năm.
Đối với sắn và các sản phẩm từ sắn trong 11 tháng xuất khẩu đạt hơn 3,8 triệu tấn, kim ngạch đạt 1,2 tỷ USD (tăng 56% về lượng và 36,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2011).
Hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng trưởng mạnh, trong đó Trung Quốc tăng 52% về lượng và gần 31% về giá trị; Hàn Quốc tăng hơn ba lần về lượng và 2,7 lần về giá trị. Riêng thị trường Nga có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn sang thị trường này chỉ bằng gần 27% về lượng và 21% về giá trị so với cùng kỳ năm 2011.
Gạo tuy tăng về lượng nhưng giá vẫn tiếp tục có xu hướng giảm nhẹ. Xuất khẩu gạo 11 tháng ước đạt 7,4 triệu tấn, với giá trị 3,4 tỷ USD (tăng 9,7% về lượng nhưng giảm 1,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước).
Tương tự đối với mặt hàng cao su, xuất khẩu 11 tháng đạt 931.000 tấn, thu về 2,6 tỷ USD (tăng 32% về lượng nhưng giảm 9,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước). Dù các thị trường lớn vẫn có tăng trưởng nhưng do giá giảm liên tục từ đầu năm nên đã ảnh hưởng tới giá trị xuất khẩu của ngành cao su trong năm nay.
Với một số sản phẩm khác như chè, hạt điều, tiêu vẫn duy trì được tăng trưởng tương đối ổn định. Tình hình tiêu thụ chè khá khả quan, Pakistan tiếp tục là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam với 19,9% thị phần.
Việt Nam cũng tiếp tục giữ vững vị trí là nước xuất khẩu hạt điều nhân lớn nhất thế giới. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân đạt 6.721 USD/tấn. Tất cả các thị trường tiêu thụ lớn đều có sự tăng trưởng khá mạnh về lượng và giá trị ngoại trừ Hà Lan (giảm gần 9% về lượng và 18% về giá trị).
Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 11 tháng ước đạt gần 4,2 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng cuối năm xuất khẩu gỗ có thể tăng do nhu cầu của thị trường thế giới tăng.
Xuất khẩu thủy sản cũng khá thuận lợi với tổng giá trị trong 11 tháng ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Theo dự báo, trong tháng cuối năm xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng tăng do nhu cầu từ các nước nhập khẩu./.
Trong số các mặt hàng nông sản chính, đáng chú ý có càphê, sắn và các sản phẩm từ sắn có sự tăng trưởng mạnh cả về giá trị và sản lượng so với năm trước. Cụ thể, tổng khối lượng càphê xuất khẩu 11 tháng đạt 1,56 triệu tấn với trị giá 3,33 tỷ USD (tăng 42% về lượng và 37,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước). Giá càphê xuất khẩu bình quân đạt 2.133 USD/tấn.
Trong năm 2012, thị trường Indonesia tăng trưởng đột biến với mức tăng gấp 8,4 lần về lượng và tám lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2011. Ngược lại, Bỉ - thị trường lớn nhất nhập khẩu càphê của Việt Nam trong năm ngoái lại có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị (chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm trước). Theo dự báo, xuất khẩu càphê trong những tháng tới có thể tăng do nguồn cung sẽ tăng mạnh khi vụ thu hoạch bắt đầu vào tháng cuối năm.
Đối với sắn và các sản phẩm từ sắn trong 11 tháng xuất khẩu đạt hơn 3,8 triệu tấn, kim ngạch đạt 1,2 tỷ USD (tăng 56% về lượng và 36,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2011).
Hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng trưởng mạnh, trong đó Trung Quốc tăng 52% về lượng và gần 31% về giá trị; Hàn Quốc tăng hơn ba lần về lượng và 2,7 lần về giá trị. Riêng thị trường Nga có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn sang thị trường này chỉ bằng gần 27% về lượng và 21% về giá trị so với cùng kỳ năm 2011.
Gạo tuy tăng về lượng nhưng giá vẫn tiếp tục có xu hướng giảm nhẹ. Xuất khẩu gạo 11 tháng ước đạt 7,4 triệu tấn, với giá trị 3,4 tỷ USD (tăng 9,7% về lượng nhưng giảm 1,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước).
Tương tự đối với mặt hàng cao su, xuất khẩu 11 tháng đạt 931.000 tấn, thu về 2,6 tỷ USD (tăng 32% về lượng nhưng giảm 9,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước). Dù các thị trường lớn vẫn có tăng trưởng nhưng do giá giảm liên tục từ đầu năm nên đã ảnh hưởng tới giá trị xuất khẩu của ngành cao su trong năm nay.
Với một số sản phẩm khác như chè, hạt điều, tiêu vẫn duy trì được tăng trưởng tương đối ổn định. Tình hình tiêu thụ chè khá khả quan, Pakistan tiếp tục là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam với 19,9% thị phần.
Việt Nam cũng tiếp tục giữ vững vị trí là nước xuất khẩu hạt điều nhân lớn nhất thế giới. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân đạt 6.721 USD/tấn. Tất cả các thị trường tiêu thụ lớn đều có sự tăng trưởng khá mạnh về lượng và giá trị ngoại trừ Hà Lan (giảm gần 9% về lượng và 18% về giá trị).
Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 11 tháng ước đạt gần 4,2 tỷ USD, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng cuối năm xuất khẩu gỗ có thể tăng do nhu cầu của thị trường thế giới tăng.
Xuất khẩu thủy sản cũng khá thuận lợi với tổng giá trị trong 11 tháng ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Theo dự báo, trong tháng cuối năm xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng tăng do nhu cầu từ các nước nhập khẩu./.
Hoàng Tùng (TTXVN)