"Cần coi cơ chế bảo trợ xã hội như một nhiệm vụ cần phải làm, hoặc là đầu tư lâu dài, chứ không coi đó như việc làm từ thiện đồng thời phải tạo điều kiện cho người dân để họ tự bảo vệ mình và tránh khỏi những cú sốc về thiên tai." Đó là khẳng định của các chuyên gia về cơ chế bảo trợ xã hội đối với sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ ở Việt Nam.
Kết luận này được đưa ra sau một nghiên cứu thực hiện bởi Viện Nghiện cứu quản lý kinh tế Trung ương, trong khuôn khổ chương trình hợp tác nghiên cứu giữa đơn vị này với Viện nghiên cứu Phát triển Thái Lan, do tổ chức Oxfam quốc tế tài trợ.
Phát biểu tại buổi Hội thảo công bố báo cáo “Cơ chế bảo trợ xã hội đối với sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ ở Việt Nam” diễn ra ngày 18/7, tại Hà Nội, các chuyên gia cho rằng cần phải bao quát được tất cả các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như người mất sức lao động, người già và trẻ em khi thực hiện các cơ chế, chính sách về bảo trợ xã hội.
Theo Tiến sĩ Võ Trí Đức, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, dự án đã xem xét bản chất về nguy cơ tổn thương của người nông dân, bao gồm những cú sốc từ bên ngoài như do biến động kinh tế vĩ mô, thiên tai, lũ lụt và những cú sốc nội tại trong các hộ gia đình như vấn đề về tiếp cận vốn, ốm đau và biến động của giá cả thị trường đối với người nông dân.
Đối với những hộ càng nghèo thì mức độ nghiêm trọng càng cao và hoàn cảnh gia đình càng xấu đi. Để khắc phục, thông thường người dân sẽ chọn một trong ba cách phản ứng là vay mượn nguồn vốn từ người thân, bạn bè, các tổ chức tài chính; cắt giảm các khoản chi tiêu hoặc phó mặc (không làm gì).
Nghiên cứu của Bộ Lao động Thương binh xã hội cũng chỉ ra rằng đa số người dân ở nông thôn chưa tham gia vào bảo hiểm xã hội. Hiện nay, bảo hiểm xã hội có tỷ lệ tham gia thấp (20%, khu vực tư nhân chỉ chiếm 2%), Bảo hiểm thất nghiệp cũng mới chỉ chiếm 12,21% lực lượng lao động. Bảo hiểm y tế tuy có 57,4% dân số tham gia nhưng chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn nghèo nàn. Về trợ giúp xã hội thì đối tượng hưởng trợ cấp còn thấp (chỉ có 1,73% dân số).
Qua đó, Viện Nghiện cứu quản lý kinh tế Trung ương đưa ra một số kiến nghị, như phân bổ hài hòa các dịch vụ xã hội thông qua cơ quan của chính phủ ở các cấp. Đẩy mạnh hợp tác giữa khu vực công, chính phủ và các tổ chức quốc tế; bảo đảm cơ hội công bằng giữa nam giới và phụ nữ trong việc tiếp cận đến các nguồn lực nông nghiệp.
Các chuyên gia khẳng định, đầu tư vào bảo trợ xã hội sẽ mang lại lợi ích dài hạn trong việc tăng năng suất nông nghiệp và giúp người nghèo thoát khỏi những rủi ro. Nông dân sản xuất quy mô nhỏ cũng có thể đóng vai trò là “tác nhân của sự đổi thay” và hoàn toàn có đủ năng lực để sống chung và đối mặt với các cú sốc và khủng hoảng bằng chính sáng kiến của họ./.
Kết luận này được đưa ra sau một nghiên cứu thực hiện bởi Viện Nghiện cứu quản lý kinh tế Trung ương, trong khuôn khổ chương trình hợp tác nghiên cứu giữa đơn vị này với Viện nghiên cứu Phát triển Thái Lan, do tổ chức Oxfam quốc tế tài trợ.
Phát biểu tại buổi Hội thảo công bố báo cáo “Cơ chế bảo trợ xã hội đối với sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ ở Việt Nam” diễn ra ngày 18/7, tại Hà Nội, các chuyên gia cho rằng cần phải bao quát được tất cả các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như người mất sức lao động, người già và trẻ em khi thực hiện các cơ chế, chính sách về bảo trợ xã hội.
Theo Tiến sĩ Võ Trí Đức, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, dự án đã xem xét bản chất về nguy cơ tổn thương của người nông dân, bao gồm những cú sốc từ bên ngoài như do biến động kinh tế vĩ mô, thiên tai, lũ lụt và những cú sốc nội tại trong các hộ gia đình như vấn đề về tiếp cận vốn, ốm đau và biến động của giá cả thị trường đối với người nông dân.
Đối với những hộ càng nghèo thì mức độ nghiêm trọng càng cao và hoàn cảnh gia đình càng xấu đi. Để khắc phục, thông thường người dân sẽ chọn một trong ba cách phản ứng là vay mượn nguồn vốn từ người thân, bạn bè, các tổ chức tài chính; cắt giảm các khoản chi tiêu hoặc phó mặc (không làm gì).
Nghiên cứu của Bộ Lao động Thương binh xã hội cũng chỉ ra rằng đa số người dân ở nông thôn chưa tham gia vào bảo hiểm xã hội. Hiện nay, bảo hiểm xã hội có tỷ lệ tham gia thấp (20%, khu vực tư nhân chỉ chiếm 2%), Bảo hiểm thất nghiệp cũng mới chỉ chiếm 12,21% lực lượng lao động. Bảo hiểm y tế tuy có 57,4% dân số tham gia nhưng chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn nghèo nàn. Về trợ giúp xã hội thì đối tượng hưởng trợ cấp còn thấp (chỉ có 1,73% dân số).
Qua đó, Viện Nghiện cứu quản lý kinh tế Trung ương đưa ra một số kiến nghị, như phân bổ hài hòa các dịch vụ xã hội thông qua cơ quan của chính phủ ở các cấp. Đẩy mạnh hợp tác giữa khu vực công, chính phủ và các tổ chức quốc tế; bảo đảm cơ hội công bằng giữa nam giới và phụ nữ trong việc tiếp cận đến các nguồn lực nông nghiệp.
Các chuyên gia khẳng định, đầu tư vào bảo trợ xã hội sẽ mang lại lợi ích dài hạn trong việc tăng năng suất nông nghiệp và giúp người nghèo thoát khỏi những rủi ro. Nông dân sản xuất quy mô nhỏ cũng có thể đóng vai trò là “tác nhân của sự đổi thay” và hoàn toàn có đủ năng lực để sống chung và đối mặt với các cú sốc và khủng hoảng bằng chính sáng kiến của họ./.
Hùng Võ (Vietnam+)