Chiến lược phát triển mới của Nhật Bản cho khu vực Mekong

Nhật Bản đã thay đổi chiến lược của mình để tập trung vào việc cải thiện sự cởi mở và tính minh bạch, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng năng lực và bảo vệ môi trường trong quá trình viện trợ cho các
Chiến lược phát triển mới của Nhật Bản cho khu vực Mekong ảnh 1(Nguồn: BBC)

Theo trang mạng eastasiaforum.org, Nhật Bản đã điều chỉnh chiến lược của họ ở khu vực sông Mekong.

Đầu năm nay, Kentaro Sonoura, chính trị gia được coi là cánh tay phải của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã vạch ra chính sách viện trợ nước ngoài của Nhật Bản cho khu vực, nhấn mạnh tầm quan trọng của "chất lượng" viện trợ chứ không phải "số lượng."

Theo đó, Nhật Bản đã thay đổi chiến lược của mình để tập trung vào việc cải thiện sự cởi mở và tính minh bạch, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng năng lực và bảo vệ môi trường trong quá trình viện trợ cho các nước khu vực sông Mekong.

Nhật Bản có ý định cung cấp viện trợ không chỉ để xây dựng đường cao tốc và cầu, mà còn trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại ở khu vực sông Mekong.

[Hội nghị thượng đỉnh Mekong-Nhật Bản tập trung tăng kết nối khu vực]

Điều này sẽ được thực hiện thông qua việc cải thiện các thủ tục hải quan ở biên giới các nước, phát triển nguồn nhân lực và thiết lập mạng lưới thương mại phục vụ luồng giao thông hàng hóa và con người tốt hơn.

Về cơ sở hạ tầng, Nhật Bản cam kết cung cấp viện trợ nước ngoài cho các dự án phát triển bao gồm cả "Hành lang phía Nam" để kết nối Thành phố Hồ Chí Minh, Phnom Penh và Bangkok, và "Hành lang Đông-Tây" kết nối Đà Nẵng của Việt Nam và Mawlamyine của Myanmar.

Đồng thời, Nhật Bản cũng hứa sẽ giúp thúc đẩy nguồn nhân lực trong những năm tới bằng cách cung cấp chương trình đào tạo nghề cho hơn 40.000 người ở châu Á, bao gồm cả các nước thuộc khu vực sông Mekong.

Khu vực sông Mekong đã nổi lên như một trung tâm phát triển mới của châu Á. Từ góc độ nhân khẩu học, tổng dân số của khu vực này là 236 triệu người trong năm 2015.

Trừ Thái Lan, dân số các nước trong khu vực này đều trẻ, với hơn 20% dân số ở độ tuổi dưới 15. Năm 2015, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của khu vực đạt 673 tỷ USD, và trừ Thái Lan, tốc độ tăng trưởng của tất cả các nước trong khu vực đều trên 5%.

Những yếu tố nhân khẩu học và kinh tế thuận lợi khiến cho khu vực này trở thành một thị trường hấp dẫn đầy tiềm năng đối với các sản phẩm và đầu tư của Nhật Bản.

Trong quá khứ, chiến lược viện trợ của Nhật Bản thường bị chỉ trích vì chỉ chuyên tâm vào phát triển cơ sở hạ tầng. Nhưng theo chiến lược mới, viện trợ của Nhật Bản ngày càng tập trung vào việc phát triển không chỉ cơ sở hạ tầng "cứng" mà cả cơ sở hạ tầng "mềm" trong khu vực Mekong.

Định hướng mới này trong chính sách viện trợ của Nhật Bản ở khu vực sông Mekong bắt nguồn từ kế hoạch ngoại giao lớn của Abe - "Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và mở cửa" lấy cảm hứng từ Mỹ. Chiến lược này nhằm thiết lập mối liên kết giữa lục địa Đông Nam Á, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Nằm ở trung tâm của Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, khu vực sông Mekong rất quan trọng cho sự thành công chung của chiến lược đầy tham vọng này.

Theo chiến lược này, Abe cam kết Nhật Bản sẽ chủ động hơn trong việc đóng góp cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng trong khu vực thông qua hợp tác 4 bên giữa Mỹ, Ấn Độ, Australia và Nhật Bản.

Điều này có nghĩa là Nhật Bản sẽ phải tham gia và tìm kiếm sự hỗ trợ tích cực từ 3 nước còn lại trong nỗ lực của mình để thực hiện chiến lược mới.

Có những nghi ngờ về việc liệu cơ chế 4 bên này có ảnh hưởng đến sự tồn tại của 2 khuôn khổ địa chính trị khác trong khu vực - cấu trúc khu vực của ASEAN với vai trò trung tâm của ASEAN và Sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI), chiến lược phát triển đầy tham vọng của Trung Quốc.

Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ở Singapore hôm 2/8 vừa qua, các bên tham dự đã nhấn mạnh rằng chiến lược "Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương" nên dựa trên khái niệm vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực.

Nói cách khác, khu vực "tự do và mở cửa" Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nên được tạo ra bằng cách thực thi các cơ chế vai trò trung tâm của ASEAN dựa trên các quy tắc.

Trong cuộc họp này, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố Trung Quốc sẽ hoan nghênh cơ chế 4 bên về hợp tác kinh tế và an ninh trong khu vực. Nhưng ông chỉ ra rằng vốn tài trợ cho cơ chế này quá nhỏ so với một kế hoạch lớn như vậy.

Có sự tương phản đáng chú ý giữa các chiến lược viện trợ của Trung Quốc và Nhật Bản trong khu vực.

Trung Quốc đang tập trung vào việc hỗ trợ các dự án cơ sở hạ tầng "cứng" trong khi Nhật Bản muốn phát triển cơ sở hạ tầng "mềm."

Trung Quốc cam kết sẽ cung cấp 10 tỷ USD theo chương trình hợp tác Lan Thương-Mekong (LMC) cho nhiều dự án phát triển cơ sở hạ tầng khác nhau, bao gồm xây dựng các đập thủy điện, đường sắt và khu công nghiệp.

Trong khi đó, Nhật Bản đã chi 7,5 triệu USD cho các cuộc tổng tuyển cử ở Campuchia hồi tháng 7 vừa qua.

Những khác biệt này trong chiến lược viện trợ của hai nước cho thấy khả năng BRI của Trung Quốc và chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Nhật Bản có thể bổ sung cho nhau và đóng vai trò có tính xây dựng trong khu vực.

Cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Abe, ông Sonoura, đã bác bỏ khả năng chiến lược viện trợ mới của Nhật Bản sẽ là mối đe dọa đối với vai trò trung tâm của ASEAN hay BRI.

Và ông tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ yêu cầu ASEAN đóng một vai trò trung tâm và rằng sáng kiến viện trợ mới không bao gồm Trung Quốc.

Trong thời kỳ thuộc địa, khu vực sông Mekong đã bị chia cắt bởi hai cường quốc Anh và Pháp.

Với những phát triển gần đây, các nước Mekong có thể muốn thực hiện một chính sách ngoại giao sắc sảo và khôn khéo để trung hòa những lợi ích mâu thuẫn tiềm tàng trong khu vực.

Nếu không, các nước Mekong có thể một lần nữa thấy mình trở thành một "sân chơi" cho các cường quốc lớn đối địch nhau ở châu Á./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục