Sáng 23/1, Đại hội làm việc tại Hội trường tiếp tục thảo luận các dự thảo văn kiện trình Đại hội XII.
Thay mặt Đoàn Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI, Thủ tướng Chính phủ, điều hành phiên thảo luận.
Xây dựng đồng bộ chính sách phát triển công nghiệp quốc gia
Thay mặt Ban Kinh tế Trung ương, đồng chí Phạm Xuân Đương, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Trưởng ban thường trực trình bày tham luận về chủ đề "Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2016-2020."
Qua 30 năm đổi mới, những thành tựu đạt được của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại, nền công nghiệp nước ta phát triển còn rất khiêm tốn, cơ cấu ngành nghề, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, năng lực dự báo tiếp cận thị trường sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, tinh thần tuân thủ hợp tác còn hạn chế; chưa chú trọng tập trung phát triển các ngành công nghiệp nền tảng như công nghiệp chế tạo, chế biến và công nghiệp vật liệu. Thị trường sản xuất công nghiệp còn hạn hẹp, chưa gắn với thị trường khoa học công nghệ. Thị trường sản xuất vật liệu chưa được quan tâm đúng mức. Chủ yếu chúng ta vẫn phải nhập khẩu, phụ thuộc phần lớn vào các thị trường bên ngoài, do vậy chưa có nhiều sản phẩm chủ lực và sản phẩm cạnh tranh quốc gia, chưa tham gia sâu vào các chuỗi sản xuất của khu vực và quốc tế. Giá trị gia tăng hầu hết các sản phẩm công nghiệp của Việt Nam chiếm tỷ trọng rất thấp, nguồn lực chưa được tập trung, thiếu những động lực cho công nghiệp quốc gia phát triển. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên trước hết từ việc tổng kết lý luận, thực tiễn về xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, việc đánh giá, rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới chưa đồng bộ, kịp thời trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần được coi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân để phát triển đất nước và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với những quan điểm, mục tiêu như sau: Thứ nhất, chính sách phát triển công nghiệp quốc gia phải được xây dựng đồng bộ, tuân thủ đầy đủ các quy luật khách quan của thị trường gắn liền với quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện có hiệu quả 3 khâu đột phá chiến lược.
Thứ hai, chính sách công nghiệp quốc gia phải phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, đồng thời thu hút có hiệu quả các nguồn lực nước ngoài, phát huy vai trò tích cực của thị trường, phân bổ các nguồn lực cho phát triển công nghiệp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng
Thứ ba, chính sách phát triển công nghiệp quốc gia lấy khoa học và công nghệ làm nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, khuyến khích các dự án sử dụng công nghệ cao, chuyển nhanh sang kinh tế tri thức để tạo bước nhảy vọt phát triển công nghiệp quốc gia
Thứ tư, chính sách phát triển công nghiệp quốc gia phải coi trọng đổi mới sáng tạo, trong đó yếu tố nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.
Thứ năm, chính sách phát triển công nghiệp phải đảm bảo kết hợp giữa phát triển công nghiệp với thương mại, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp văn hóa, công nghiệp dịch vụ, công nghiệp du lịch, công nghiệp môi trường và phát triển đô thị; gắn sản xuất với thị trường, gắn thị trường với công nghệ, thị trường với sản xuất.
Để thực hiện quan điểm, mục tiêu nêu trên, Ban Kinh tế Trung ương nghiên cứu một số định hướng chính sách lớn để phát triển công nghiệp quốc gia giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến 2035. Tại Đại hội này, Ban Kinh tế Trung ương đề xuất một số giải pháp chủ yếu.
Một là, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về tài nguyên, lợi thế so sánh và nguồn lực con người để nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh tích lũy nguồn lực cho phát triển công nghiệp quốc gia, nâng cao năng lực tiếp cận phát triển các yếu tố nguồn lực và thị trường, trong đó tập trung vào phát triển, tiếp cận vốn và thị trường tài chính, lao động và thị trường lao động, khoa học công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, cơ sở hạ tầng; tăng cường liên kết hợp tác và kết nối thị trường giữa các ngành kinh tế, chủ thể kinh tế, không gian kinh tế; nâng cao năng lực hội nhập quốc tế, phân bổ nguồn lực hợp lý giữa phát triển công nghiệp với đô thị hóa gắn liền với phát triển bền vững, bảo vệ môi trường; hình thành một số tập đoàn công nghệp mạnh, trọng tâm là công nghiệp nền tảng như công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến, chế tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp và khởi sự doanh nghiệp.
Hai là tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động quốc gia và đóng góp của năng suất, các yếu tố tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng đẩy mạnh khoa học, công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo, tăng cường kết nối khu vực và coi trọng phát triển bền vững theo chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc.
Ba là, tiến hành phân loại các nhóm chính sách công nghiệp quốc gia để hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp và đồng bộ, nhất là các nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp nền tảng, các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; nhóm chính sách cho các ngành công nghiệp vật liệu và vật liệu mới, công nghệ số và công nghiệp phần mềm; đẩy mạnh phát triển công nghiệp công nghệ thông tin
Bốn là thúc đẩy đầu tư phát triển khoa học công nghệ gắn nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học với sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hóa trong quản lý hành chính Nhà nước và quản trị công nghiệp quốc gia, đáp ứng nhu cầu của thị trường; chú trọng đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học công nghệ; thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Năm là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy mạnh thực hiện đổi mới phương thức giáo dục - đào tạo, chú trọng đào tạo ngành nghề, kỹ thuật, kỹ năng văn hóa và tác phong công nghiệp.
Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại
Nêu bật những đóng góp của ngành nông nghiệp giai đoạn 2011-2015, Bộ trưởng Cao Đức Phát nhận định trong bối cảnh chung có nhiều khó khăn, thách thức, nước ta đã cơ bản đạt được mục tiêu duy trì tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và tăng cường xuất khẩu; nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống dân cư nông thôn, bảo vệ và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững.
Để thực hiện chủ trương tiếp tục thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế, trong đó cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới đã xác định trong dự thảo Văn kiện của Đại hội, Bộ trưởng Cao Đức Phát kiến nghị tập trung phát triển ngành nông nghiệp bền vững theo 3 trụ cột là: Thực hiện tái cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, giá trị gia tăng cao và hiệu quả; xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện sống của dân cư nông thôn; phát triển kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai; bảo vệ và sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và môi trường bền vững.
Theo Bộ trưởng, để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đó, kinh nghiệm thực tiễn những năm qua cho thấy trước hết cần có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của các cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực của tất cả các ngành, các tổ chức chính trị-xã hội từ trung ương đến địa phương để giải quyết một cách đồng bộ, tổng thể các nhiệm vụ; trong đó tập trung thực hiện tốt các giải pháp: Tiếp tục quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức về sự cần thiết, tất yếu và tầm quan trọng của việc tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phải xác định tái cơ cấu nông nghiệp thực chất là cuộc đổi mới lần thứ hai trong nông nghiệp và khẳng định tính cách mạng của chủ trương xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục tập trung nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trên cơ sở phát triển đồng bộ, hiệu quả các thị trường liên quan, trước hết tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường, hiện đại hóa nông nghiệp, khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn để tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho nông dân, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường nông thôn bền vững.
Bộ trưởng đề xuất đẩy mạnh đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, trọng tâm là phát triển các doanh nghiệp nông-lâm nghiệp và các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu; hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới không chỉ làm tốt các dịch vụ đầu vào cho xã viên mà chủ yếu tập trung tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đồng nhất về chất lượng, hiệu quả, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và kết nối thị trường. Tăng cường nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, ưu tiên ứng dụng công nghệ cao trong tất cả các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của ngành; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tin học, công nghệ sinh học, công nghệ viễn thông, viễn thám; khuyến khích các hoạt động đổi mới sáng tạo nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả của ngành. Chú trọng khuyến khích doanh nghiệp tham gia nghiên cứu chuyển giao khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho nông dân.
Bộ trưởng đề nghị cần tiếp tục huy động các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; nâng cấp cơ bản hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu trên địa bàn xã (giao thông, điện, nước sạch, trường học các cấp, trạm y tế xã, nhà văn hóa và khu thể thao thôn), nhất là đối với các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội và tăng hưởng thụ trực tiếp cho cư dân nông thôn. Phát huy cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Tiếp tục kiện toàn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống quản lý ngành từ Trung ương đến địa phương, phát huy cao sự tham gia của các tổ chức đoàn thể trong tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Tăng trưởng xanh và bền vững
Tham luận về "Xây dựng và phát triển Thừa Thiên-Huế theo hướng tăng trưởng xanh và bền vững" của đồng chí Lê Trường Lưu, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế đã nêu lên những kinh nghiệm trong việc giải quyết hài hòa mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, cũng như giữa phát triển nhanh và bền vững của địa phương.
Thừa Thiên-Huế huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị theo hướng “Đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh.” Đô thị Thừa Thiên-Huế hàm chứa sự đa dạng về địa hình - sông, núi, gò đồi, đầm phá, biển, cảnh quan thiên nhiên và văn hóa. Lịch sử hình thành đô thị Huế có tính đặc thù riêng, Huế là một Kinh thành và nay là một thành phố di sản văn hóa thế giới. Để xây dựng và phát triển đô thị Huế, không nhất thiết phải xây nhiều nhà cao tầng, nhiều chung cư san sát nhau, có cư dân đông đúc và nhiều nhà máy. Thừa Thiên-Huế phát triển đô thị theo mô hình “Đô thị trung tâm và chùm đô thị vệ tinh” giúp giảm áp lực về giao thông; về ô nhiễm môi trường sống, đất ở đô thị và các hệ lụy xã hội khác. Kết nối giữa các đô thị là hệ thống giao thông, cảnh quan thiên nhiên và cây xanh. Quan tâm đầu tư và khuyến khích phát triển “vườn trong nhà, nhà trong vườn,” hướng đến xây dựng Thành phố vườn. Phát triển du lịch, dịch vụ thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trình độ khoa học-công nghệ để tạo bứt phá trong nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Xây dựng các cơ chế, chính sách để thu hút, sử dụng nhân tài, đặc biệt phát huy vai trò của đông đảo đội ngũ trí thức, giáo sư, phó giáo sư, các nhà khoa học trên địa bàn để tham gia hoạch định và phản biện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội... Tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế để học tập kinh nghiệm và tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế... Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân và cộng đồng về phát triển xanh và bền vững...
Theo đồng chí Lê Trường Lưu, để thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thừa Thiên-Huế mà cần sự hỗ trợ của các ban, bộ, ngành Trung ương và sự đồng thuận của cả nước. Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên-Huế đề nghị Trung ương bổ sung vào Báo cáo chính trị nội dung “tăng trưởng xanh và bền vững” và xem đây là vấn đề chiến lược có ý nghĩa lâu dài; đồng thời nghiên cứu bổ sung một số địa phương có ưu thế vượt trội về tăng trưởng xanh, để xây dựng “mô hình mẫu” nhằm thực hiện có hiệu quả Chiến lược tăng trưởng xanh gắn với xây dựng thành phố thông minh vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 2016- 2020.
Bên cạnh việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, Thừa Thiên-Huế nhận thấy cần phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp công nghệ cao để tạo bứt phá trong phát triển kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các địa phương trong khu vực. Trung ương và các ban, bộ, ngành quan tâm định hướng, giới thiệu các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn lớn đến đầu tư, nhất là đối với các dự án thuộc lĩnh vực du lịch, công nghiệp công nghệ cao; đồng thời có cơ chế đặc thù, thông thoáng và tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện “mô hình mẫu” về tăng trưởng xanh được phát triển các dịch vụ đặc thù như du lịch sinh thái gắn với khám, chữa bệnh, du lịch biển, đầm phá...
Với thế mạnh về truyền thống lịch sử và vai trò nổi trội trong các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học-công nghệ và du lịch; cùng với sự hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của bạn bè trong nước, quốc tế; Thừa Thiên-Huế sẽ cùng với thành phố Đà Nẵng đảm nhận vị trí một vùng đô thị động lực - cực tăng trưởng cấp quốc gia tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên, tạo sự lan tỏa cho cả nước. Đó cũng là con đường “tăng trưởng xanh và bền vững” trong quá trình đô thị hóa đất nước.
TTXVN tiếp tục cập nhật nội dung phiên thảo luận./.