Năm nào cũng vậy, cụ bà Hà Thị Hom, người Mường ở xã Yên Trung, huyện Thạch Thất, Hà Nội lẩn mẩn chuẩn bị Tết từ ngay tháng 4, tháng 5. Đến những ngày này, người Mường Thủ đô đã bắt đầu xôn xao đón xuân về.
Theo quan niệm truyền thống của xứ Mường, Tết không bắt đầu vào ngày Ông Công, ông Táo như của người Việt. Ngày xuân chỉ thực sự bắt đầu từ 27 tháng Chạp. Từ ngày này, chợ Tết cũng mới được mở ra.
Từ sáng sớm tinh mơ, những nẻo đường của Yên Trung đã bắt đầu rộn rã tiếng người. Từ các con đường nho nhỏ, các bà, các chị gánh gồng ra chợ Tết để chuẩn bị cho mấy ngày sắp tới.
Người Mường Yên Trung cũng có tục gói bánh chưng, bánh dày như người Kinh “hàng xóm.” Bởi vậy, phụ nữ Mường dịp này được giao nhiệm vụ chọn lựa lá dong xanh nhất, lành nhất để chuẩn bị gói bánh. Các chị, các mẹ lỉnh kỉnh xách về từ măng, miến khô, đồ trang trí. Lũ trẻ con cũng đã xúng xính áo quần chờ xuân sang.
Độc đáo nhất trong Tết của người Mường trên rẻo cao của Thủ đô chính là văn hóa ẩm thực.
Vào dịp Tết, mỗi gia đình đều mổ một con lợn, dù to hay nhỏ để làm cỗ mời anh em, bạn bè, hàng xóm sang chung vui. Người Mường quan niệm ăn thế nào thì thờ cúng thế đó nên trong mâm cỗ để cúng có đủ các món ngày Tết.
Đặc biệt hơn, cùng với bánh chưng, mâm cỗ ngày Tết của người Mường ở Yên Trung không thể thiếu ba thứ đặc sản: bánh chéo kheo, nem chua hun và cá đồ.
Bánh chéo kheo được làm từ bột nếp, có nhân đậu xanh đồ chín trộn với mật. Bánh được gói bằng lá hó (một loại lá cây mọc trên núi) thành hình trụ, dài khoảng 7-10 phân và mỗi lá phải gói hai chiếc bánh, gấp lại thành một đôi, tượng trưng cho tình yêu đôi lứa thắm thiết, bền chặt.
Món nem chua thì được làm từ thịt ba chỉ thái nhỏ, trộn với rượu, gia vị và thính (làm từ ngô hoặc gạo rang vàng, xay thành hạt lấm tấm) rồi gói bằng lá chuối đem treo lên gác bếp. Sau 2 - 3 ngày hun khói có thể bỏ nem ra ăn. Khi ăn kèm với lá sung, lá ổi có vị thơm, ngọt bùi và đậm đà.
Mâm cỗ của người Mường ngày xuân về còn được gia giảm vớ món cá đồ. Từ mấy ngày trước Tết, đàn ông xứ Mường sẽ ra suối bắt cá nhỏ. Phụ nữ lại tẩm ướp gia vị, gừng rồi đồ lên như Bắc Bộ đồ xôi cho mềm. Cá để nguội sẽ đông lại và được bày ra đĩa.
Bà cụ Hà Thị Hom, năm nay đã 78 tuổi móm mém cười bảo: “Trông mâm cỗ của chúng tôi đơn giản vậy, nhưng gia đình nào cũng phải chuẩn bị từ mấy tháng trước.”
Lợn phải được vỗ béo, nuôi từ khi còn nhỏ, đến cuối năm mới mang ra mổ. Cây cối trong vườn cũng phải chăm sóc kỹ để đến đêm 30 có được đủ quả để sắp lên ban thờ. Thế mới thấy, bản thân văn hóa Tết của người Mường nơi đây đã kết tinh thành quả lao động của cả một cộng đồng.
Thời khắc quan trọng nhất là đêm Giao thừa. Đêm Giao thừa, người Mường thường làm hai mâm cỗ để cúng tổ tiên và Thần cai quản đất đai. Trước đây, khi còn ở nhà sàn, người Mường không lập bàn thờ mà chỉ ngày Tết mới dựng ban thờ bằng cột, phên đan.
Nhưng ngày nay, sau 4 năm về với Thủ đô Hà Nội, khi xây nhà kiên cố, người Mường ở Yên Trung cũng lập ban thờ cúng tổ tiên, trang trí câu đối Tết, mâm ngũ quả gồm chuối, bưởi và các quả có màu sắc đẹp, mang lại may mắn trong năm mới.
Đời sống lao động nông nghiệp đã tác động rất lớn đến nếp ăn, nếp nghĩ của một Tết Mường.
Điểm lạ lẫm nhất đối với những du khách đường xa được đón Tết Mường tại Yên Trung là tục “cho trâu ăn trước” năm mới. Sau khi hoàn thành các thủ tục cúng lễ đêm 30, bà cụ Hem lục tục giục con cháu ra lấy cỏ cho trâu ăn.
Thấy khách thắc mắc, bà cười bảo: “Người Mường cũng quan niệm như người Kinh: Con trâu là đầu cơ nghiệp. Vì vậy phải cho trâu ăn trước vì trâu đã làm vất vả cả năm, ra Tết cũng phải đi làm trước.”
Mà không chỉ có con trâu được “ưu ái” trong dịp này. Chỉ tay vào gian bếp nhỏ đã dựng ngay ngắn đủ thứ cày, cuốc, dao, liềm, cụ Hem cho hay: Đó là những dụng cụ giúp cho người nông dân làm ra thóc lúa, của cải nên cũng phải được ăn Tết cùng gia chủ, nếu để bừa bãi thì năm mới làm ăn sẽ khó khăn.
Ở các xứ Mường cao hơn, ngay trong đêm Giao thừa, sau lễ cúng, đồng bào sẽ kéo nhau ra con suối đầu làng, mỗi người gánh về một xô nước cầu may. Còn người Mường Yên Trung lại có tập tục lấy nước giếng làng vào sáng sớm ngày mùng Một Tết về cúng và vẩy trong nhà cầu cho năm mới mọi sự an lành…
Lang thang trong xứ Mường những ngày xuân, khách thấy mình như lạc vào một không gian khác, bình yên hơn chứ không ồn ào như phố thị. Đi qua một căn nhà nhỏ góc làng, khách đột nhiên nghe thấy lời hát véo von: “Chăng ăn cầm lệ eng ơi” [Không ăn cầm lấy anh ơi, lời bài hát mời trầu của người Mường-PV]. Theo tiếng hát, bước chân vào căn nhà nhỏ, khách thấy gia chủ đã xếp bằng, niềm nở chào đón kẻ viễn du xa lạ.
Khách được mời trà, mời ăn trầu và còn được “lì xì” thêm cả những sản vật đặc biệt chỉ có ở nơi đây là món chè lam, kẹo lạc do gia chủ tự làm ra. Khách cũng được cầu chúc năm mới bình yên, gặp nhiều may mắn.
Vào Yên Trung dịp Tết, thấy rất bình yên, bởi bản thân người Mường ở rẻo cao Hà Nội có quan niệm không được nói tục, chửi bậy, đánh nhau những ngày này. Một không gian văn hóa thực sự đã được tạo dựng nên từ những truyền thống giản dị nhất./.
Theo quan niệm truyền thống của xứ Mường, Tết không bắt đầu vào ngày Ông Công, ông Táo như của người Việt. Ngày xuân chỉ thực sự bắt đầu từ 27 tháng Chạp. Từ ngày này, chợ Tết cũng mới được mở ra.
Từ sáng sớm tinh mơ, những nẻo đường của Yên Trung đã bắt đầu rộn rã tiếng người. Từ các con đường nho nhỏ, các bà, các chị gánh gồng ra chợ Tết để chuẩn bị cho mấy ngày sắp tới.
Người Mường Yên Trung cũng có tục gói bánh chưng, bánh dày như người Kinh “hàng xóm.” Bởi vậy, phụ nữ Mường dịp này được giao nhiệm vụ chọn lựa lá dong xanh nhất, lành nhất để chuẩn bị gói bánh. Các chị, các mẹ lỉnh kỉnh xách về từ măng, miến khô, đồ trang trí. Lũ trẻ con cũng đã xúng xính áo quần chờ xuân sang.
Độc đáo nhất trong Tết của người Mường trên rẻo cao của Thủ đô chính là văn hóa ẩm thực.
Vào dịp Tết, mỗi gia đình đều mổ một con lợn, dù to hay nhỏ để làm cỗ mời anh em, bạn bè, hàng xóm sang chung vui. Người Mường quan niệm ăn thế nào thì thờ cúng thế đó nên trong mâm cỗ để cúng có đủ các món ngày Tết.
Đặc biệt hơn, cùng với bánh chưng, mâm cỗ ngày Tết của người Mường ở Yên Trung không thể thiếu ba thứ đặc sản: bánh chéo kheo, nem chua hun và cá đồ.
Bánh chéo kheo được làm từ bột nếp, có nhân đậu xanh đồ chín trộn với mật. Bánh được gói bằng lá hó (một loại lá cây mọc trên núi) thành hình trụ, dài khoảng 7-10 phân và mỗi lá phải gói hai chiếc bánh, gấp lại thành một đôi, tượng trưng cho tình yêu đôi lứa thắm thiết, bền chặt.
Món nem chua thì được làm từ thịt ba chỉ thái nhỏ, trộn với rượu, gia vị và thính (làm từ ngô hoặc gạo rang vàng, xay thành hạt lấm tấm) rồi gói bằng lá chuối đem treo lên gác bếp. Sau 2 - 3 ngày hun khói có thể bỏ nem ra ăn. Khi ăn kèm với lá sung, lá ổi có vị thơm, ngọt bùi và đậm đà.
Mâm cỗ của người Mường ngày xuân về còn được gia giảm vớ món cá đồ. Từ mấy ngày trước Tết, đàn ông xứ Mường sẽ ra suối bắt cá nhỏ. Phụ nữ lại tẩm ướp gia vị, gừng rồi đồ lên như Bắc Bộ đồ xôi cho mềm. Cá để nguội sẽ đông lại và được bày ra đĩa.
Bà cụ Hà Thị Hom, năm nay đã 78 tuổi móm mém cười bảo: “Trông mâm cỗ của chúng tôi đơn giản vậy, nhưng gia đình nào cũng phải chuẩn bị từ mấy tháng trước.”
Lợn phải được vỗ béo, nuôi từ khi còn nhỏ, đến cuối năm mới mang ra mổ. Cây cối trong vườn cũng phải chăm sóc kỹ để đến đêm 30 có được đủ quả để sắp lên ban thờ. Thế mới thấy, bản thân văn hóa Tết của người Mường nơi đây đã kết tinh thành quả lao động của cả một cộng đồng.
Thời khắc quan trọng nhất là đêm Giao thừa. Đêm Giao thừa, người Mường thường làm hai mâm cỗ để cúng tổ tiên và Thần cai quản đất đai. Trước đây, khi còn ở nhà sàn, người Mường không lập bàn thờ mà chỉ ngày Tết mới dựng ban thờ bằng cột, phên đan.
Nhưng ngày nay, sau 4 năm về với Thủ đô Hà Nội, khi xây nhà kiên cố, người Mường ở Yên Trung cũng lập ban thờ cúng tổ tiên, trang trí câu đối Tết, mâm ngũ quả gồm chuối, bưởi và các quả có màu sắc đẹp, mang lại may mắn trong năm mới.
Đời sống lao động nông nghiệp đã tác động rất lớn đến nếp ăn, nếp nghĩ của một Tết Mường.
Điểm lạ lẫm nhất đối với những du khách đường xa được đón Tết Mường tại Yên Trung là tục “cho trâu ăn trước” năm mới. Sau khi hoàn thành các thủ tục cúng lễ đêm 30, bà cụ Hem lục tục giục con cháu ra lấy cỏ cho trâu ăn.
Thấy khách thắc mắc, bà cười bảo: “Người Mường cũng quan niệm như người Kinh: Con trâu là đầu cơ nghiệp. Vì vậy phải cho trâu ăn trước vì trâu đã làm vất vả cả năm, ra Tết cũng phải đi làm trước.”
Mà không chỉ có con trâu được “ưu ái” trong dịp này. Chỉ tay vào gian bếp nhỏ đã dựng ngay ngắn đủ thứ cày, cuốc, dao, liềm, cụ Hem cho hay: Đó là những dụng cụ giúp cho người nông dân làm ra thóc lúa, của cải nên cũng phải được ăn Tết cùng gia chủ, nếu để bừa bãi thì năm mới làm ăn sẽ khó khăn.
Ở các xứ Mường cao hơn, ngay trong đêm Giao thừa, sau lễ cúng, đồng bào sẽ kéo nhau ra con suối đầu làng, mỗi người gánh về một xô nước cầu may. Còn người Mường Yên Trung lại có tập tục lấy nước giếng làng vào sáng sớm ngày mùng Một Tết về cúng và vẩy trong nhà cầu cho năm mới mọi sự an lành…
Lang thang trong xứ Mường những ngày xuân, khách thấy mình như lạc vào một không gian khác, bình yên hơn chứ không ồn ào như phố thị. Đi qua một căn nhà nhỏ góc làng, khách đột nhiên nghe thấy lời hát véo von: “Chăng ăn cầm lệ eng ơi” [Không ăn cầm lấy anh ơi, lời bài hát mời trầu của người Mường-PV]. Theo tiếng hát, bước chân vào căn nhà nhỏ, khách thấy gia chủ đã xếp bằng, niềm nở chào đón kẻ viễn du xa lạ.
Khách được mời trà, mời ăn trầu và còn được “lì xì” thêm cả những sản vật đặc biệt chỉ có ở nơi đây là món chè lam, kẹo lạc do gia chủ tự làm ra. Khách cũng được cầu chúc năm mới bình yên, gặp nhiều may mắn.
Vào Yên Trung dịp Tết, thấy rất bình yên, bởi bản thân người Mường ở rẻo cao Hà Nội có quan niệm không được nói tục, chửi bậy, đánh nhau những ngày này. Một không gian văn hóa thực sự đã được tạo dựng nên từ những truyền thống giản dị nhất./.
Sơn Bách (Vietnam+)