CIEM: Thành lập tập đoàn kinh tế cần theo nhu cầu thị trường

Nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương đề xuất việc thành lập tập đoàn kinh tế cần dựa trên nguyên tắc thị trường, dựa trên nhu cầu nội tại của các doanh nghiệp.
CIEM: Thành lập tập đoàn kinh tế cần theo nhu cầu thị trường ảnh 1Công ty Đóng tàu Thịnh Long thuộc Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin). (Ảnh: Thế Duyệt/TTXVN)

Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương (CIEM) vừa đưa ra Báo cáo “Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững tập đoàn kinh tế ở Việt Nam”, trong đó đề xuất cần hướng tới việc thành lập tập đoàn kinh tế dựa trên nguyên tắc thị trường, dựa trên nhu cầu nội tại của các doanh nghiệp.

Cần một định nghĩa rõ ràng về tập đoàn kinh tế

Theo báo cáo nghiên cứu của CIEM cho thấy tại Việt Nam, các tập đoàn kinh tế hoạt động chủ yếu theo hình thức công ty mẹ-công ty con và có các doanh nghiệp liên kết. Phần lớn các tập đoàn kinh tế có 2 cấp doanh nghiệp (chiếm 59% tổng số tập đoàn kinh tế), chỉ có 1 tỷ lệ nhỏ (4%) có từ 4 cấp doanh nghiệp trở lên.

Kể từ năm 2005 đến nay, các tập đoàn kinh tế nhà nước tăng khá nhanh và chiếm tỷ lệ áp đảo trong nhóm các doanh nghiệp có quy mô lớn nhất (15 vị trí trong tốp 20 doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn nhất Việt Nam). Các tập đoàn này giữ vị trí thống lĩnh theo ngành: 99% trong sản xuất phân bón, 97% trong khai thác than, 94% trong sản xuất điện, ga; 91% trong truyền thông; 88% trong lĩnh vực bảo hiểm.

Sau khi hình thành, các tập đoàn kinh tế đều có sự tăng trưởng khá ấn tượng về tất cả các chỉ tiêu. Về tổng tài sản, trước khi thành lập tập đoàn chỉ có 50% nhóm doanh nghiệp có mức tăng bình quân trên 10%/năm. Nhưng sau khi hình thành tập đoàn có đến 76% số tập đoàn có mức tăng trên 10%/năm, trong đó 46,2% số tập đoàn có mức tăng trên 20%. Các chỉ tiêu về vốn chủ sở hữu, doanh thu hay lợi nhuận và nộp ngân sách cũng có mức tăng trưởng tương tự.

Các tập đoàn kinh tế tư nhân những năm gần đây cũng đã tăng trưởng nhanh tài sản và vốn, dù vẫn rất nhỏ so với tập đoàn kinh tế nhà nước (tổng vốn của 8 tập đoàn kinh tế tư nhân lớn nhất chỉ bằng 15,5% tổng vốn của 8 tập đoàn kinh tế Nhà nước). Tập đoàn kinh tế tư nhân sử dụng vốn chủ sở hữu tốt và dường như đang phát triển biền vững hơn các tập đoàn kinh tế Nhà nước.

Chẳng hạn, những năm gần đây, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu bình quân của các tập đoàn tư nhân duy trì ổn định ở mức xấp xỉ 55%, cao hơn một chút so với tỷ lệ 50% của toàn bộ khu vực doanh nghiệp Việt Nam (không tính doanh nghiệp FDI). Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhà nước có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn doanh nghiệp tư nhân.

Các tập đoàn kinh tế tư nhân có mức độ hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu (ROE) tốt hơn so với các tập đoàn Nhà nước: tỷ lệ ROE bình quân của 20 tập đoàn kinh tế lớn nhất thuộc khu vực tư nhân đạt 8,45% trong năm 2012 và 12,27% trong năm 2013, trong khi các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp Nhà nước ước đạt 5,28% trong năm 2012 và 7,30% trong năm 2013.

Tiến sỹ Trần Tiến Cường, một chuyên gia hàng đầu về doanh nghiệp Nhà nước đánh giá rằng hơn 10 năm nay, Việt Nam vẫn cứ luẩn quẩn và rối về khái niệm cũng như về nhận thức về tập đoàn kinh tế.

Theo tiến sỹ Trần Tiến Cường, quan niệm tập đoàn kinh tế Nhà nước ngoài kinh doanh còn nhiệm vụ xã hội, quốc phòng an ninh cần phải thay đổi. Đã là tập đoàn chỉ có nhiệm vụ kinh doanh.

“Không nên hô hào phát triển tập đoàn kinh tế, rồi trao đặc quyền, đặc lợi để khuyến khích. Nên để thị trường tự vận động, khi các doanh nghiệp phát triển tới mức đủ lớn sẽ thành tập đoàn. Nhà nước chỉ đứng ngoài kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro tới nền kinh tế do các tập đoàn tạo ra, chống độc quyền… Có gỡ được lý luận về tập đoàn mới có cơ may giải quyết được mớ rối về tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước,” ông Cường nói.

Ông Bùi Văn Dũng, Trưởng ban Cải cách và Phát triển doanh nghiệp (CIEM) cho rằng, vì chưa có một định nghĩa rõ ràng về tập đoàn, nên dẫn tới tình trạng lộn xộn, thậm chí chạy đua thành tập đoàn. Thậm chí, có tập đoàn là thành viên của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa… nhưng thực tế số vốn chỉ vài tỷ đồng, thậm chí mới bắt đầu kinh doanh, ông Dũng nói.

Còn Viện trưởng CIEM Nguyễn Đình Cung cho biết: những nước ít nói về tập đoàn, lại có nhiều tập đoàn nhất. Ở Hoa Kỳ hay châu Âu, người ta không có luật về tập đoàn thì các tập đoàn lại phát triển rất mạnh. Thực tế không có định nghĩa tập đoàn về mặt khoa học, các tập đoàn được hình thành một cách tự nhiên. Việt Nam đang trong quá trình thiết lập và hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các tập đoàn kinh tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy khi ban hành quy định gì đó về tập đoàn, chính là lúc người ta bắt đầu hạn chế sự phát triển của tập đoàn.

Cần dựa trên nguyên tắc thị trường

Theo ông Bùi Văn Dũng, CIEM, tập đoàn kinh tế Nhà nước lâu nay quá coi trọng quy mô, hoạt động đa ngành nghề mà không tập trung vào mảng kinh doanh cốt lõi; vượt quá năng lực tài chính, quản trị…

Kết cục, hiệu quả hoạt động của nhiều tập đoàn kinh tế Nhà nước chưa tương xứng với các nguồn lực đang nắm giữ. Nhiều tập đoàn kinh tế Nhà nước tham gia vào lĩnh vực rủi ro (như tài chính, ngân hàng, bất động sản, bảo hiểm), gặp khó khăn trong quản lý, giám sát khi thị trường có biến động mạnh.

Do đó, nhóm nghiên cứu của Báo cáo đề xuất, cần hướng tới việc thành lập tập đoàn kinh tế dựa trên nguyên tắc thị trường, dựa trên nhu cầu nội tại của các doanh nghiệp. Với tập đoàn kinh tế Nhà nước, phải tái cơ cấu hướng tới sử dụng hiệu quả nguồn lực tài nguyên, vốn; thiết lập và vận hành hệ thống giám sát; Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng chủ sở hữu với tư cách một nhà đầu tư; áp dụng nguyên tắc, kỷ luật thị trường với tất cả các tập đoàn…

Tiến sỹ Đinh Quang Ty, Hội đồng lý luận Trung ương, cho rằng, khi thành lập các tập đoàn kinh tế Nhà nước, Việt Nam chưa hiểu hết, nên thiên về chính trị nhiều hơn yếu tố kinh tế. “Phong trào tập đoàn kinh tế ai cũng biết, bên cạnh cái được đã có một số bất ổn lớn liên quan tới khối tập đoàn kinh tế Nhà nước, khởi nguồn là Vinashin, rồi Vinalines."

Ông Ty nói: “câu chuyện lợi ích nhóm, sân sau có hay không? CIEM cần chỉ ra được những bất cập lớn nhất của các tập đoàn kinh tế liên quan đến bất lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.”

Theo Viện trưởng CIEM Nguyễn Đình Cung, Nhà nước đang cùng lúc làm 3 vai trò (xây dựng chính sách, chủ sở hữu doanh nghiệp và giám sát). Do đó, các bộ làm chính sách cũng là làm cho mình, thường chỉ giám sát người khác còn mình thì không.

“Các cơ quan đại diện chủ sở hữu Nhà nước đang mâu thuẫn với chính mình. Đơn cử nhất là ngành điện, không nước nào Bộ Công Thương ứng xử với ngành mình quản lý như Bộ Công Thương Việt Nam, đấy là cách ứng xử của chủ sở hữu, không phải cơ quan quản lý. Vì thế, trật tự thị trường không được quản lý, không cạnh tranh lành mạnh, tạo ra dư địa cho địa tô, cho lợi ích nhóm," ông Cung bày tỏ.

Để hạn chế tình trạng lợi ích nhóm, “sân trước, sân sau” trong các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước, theo ông Cung là phải thị trường càng nhiều càng tốt; đồng thời thiết lập thế cân bằng quyền lực, giám sát được những người đại diện chủ sở hữu, những người quản lý để họ luôn luôn trung thành, trung thực và không ở vị thế lạm dụng được quyền lực./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục