Củng cố cơ sở pháp lý cho vụ kiện của nạn nhân da cam

Các nhà khoa học đã bàn về cơ sở pháp lý để yêu cầu chính phủ và các công ty hóa chất Mỹ chịu trách nhiệm về hậu quả dioxin ở Việt Nam.
Củng cố cơ sở pháp lý cho vụ kiện của nạn nhân da cam ảnh 1Nạn nhân chất độc da cam Việt Nam. (Nguồn: TTXVN)

Ngày 12/3, Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức hội thảo khoa học quốc gia “Cơ sở pháp lý yêu cầu chính phủ và các công ty hóa chất Mỹ chịu trách nhiệm về hậu quả chất da cam/dioxin ở Việt Nam.”

Hội thảo có sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong nước, những người tham gia vụ kiện tại Mỹ.

Nhằm tiếp tục củng cố bằng chứng pháp lý cho vụ kiện tại Mỹ, các nhà khoa học tập trung thảo luận xung quanh vấn đề về các cơ sở pháp lý của mối quan hệ nhân quả giữa chất da cam/dioxin với các loại bệnh ở các nạn nhân Việt Nam. Những vấn đề liên quan đến trách nhiệm sản phẩm của nhà thầu Chính phủ, trách nhiệm pháp lý của Mỹ đối với việc sử dụng chất diệt cỏ, vũ khí hóa học trong chiến tranh Việt Nam theo pháp luật quốc tế cũng được nhìn nhận một cách đầy đủ.

Thông qua cơ sở pháp lý của phán quyết trong vụ các cựu binh Hàn Quốc tham gia chiến tranh ở Việt Nam kiện ra Tòa án Hàn Quốc, yêu cầu các công ty hóa chất Mỹ bồi thường tổn hại sức khỏe do nhiễm chất da cam/dioxin, vận dụng pháp luật quốc tế trong giải quyết các vụ kiện tại Canada, Australia, Ấn Độ, các nhà khoa học tìm hướng gợi mở cho vụ kiện của nạn nhân chất da cam/dioxin ở Việt Nam.

Tiến sỹ Trần Ngọc Tâm, thuộc Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, cho rằng tác hại của chất độc da cam/dioxin do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đối với môi trường, sinh thái và con người Việt Nam là không thể phủ nhận.

Bằng chứng nhân quả giữa chất da cam/dioxin liên quan đến bệnh tật của người bị phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin ngày càng được các nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội trên thế giới làm rõ với độ tin cậy cao.

Theo giáo sư Nông Văn Hải thuộc Viện Công nghệ gen-Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam, việc đưa vụ kiện này lên tòa án Mỹ đã là một thành công bước đầu, đánh thức lương tâm của loài người nói chung đối với hành động gây hậu quả lâu dài cho môi trường, con người.

Tuy nhiên, thực tế nhiều công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam có thể làm bằng chứng pháp lý cho vụ kiện này nhưng chưa được công bố quốc tế nên không thể sử dụng. Bởi vậy, để tránh bị thiệt thòi liên quan đến các vụ kiện mang tính quốc tế, Việt Nam cần xem lại cơ chế công bố quốc tế cho các công trình nghiên cứu khoa học./.

(TTXVN)

Tin cùng chuyên mục