Người thổ dân da đỏ Mỹ đầu tiên được phong thánh

Trên một cánh đồng ở New York, bức tượng một cô gái thổ dân Bắc Mỹ đã trở thành vị thánh người bản địa đầu tiên toát lên vẻ êm ả.
Trên một cánh đồng lạnh lẽo ở New York, bức tượng một cô gái thổ dân Bắc Mỹ đã trở thành vị thánh người bản địa đầu tiên toát lên vẻ êm ả.

Tuy nhiên, thực ra Kateri Tekakwitha đã có một cuộc đời thảm khốc - và những bóng ma từ cuộc đời bi kịch của cô vẫn còn ám ảnh những ngọn đồi ở nơi đây.

Nhân vật từ thế kỷ 17 này sẽ làm nên lịch sử khi Vatican phong thánh cô vào cuối năm nay, mặc dù niềm vui trong cộng đồng thổ dân bản xứ sẽ trộn lẫn với một vài kỷ niệm lịch sử đau đớn.

Không một "người da đỏ" nào khác, trong số những cư dân bản địa ban đầu của Mỹ và Canada, được biết đến rộng rãi, và được phong thánh.

Những thế kỷ tiếp nối nhau bị chiếm đoạt, kỳ thị hoặc bị tẩy chay, những người Mỹ bản địa sẽ sớm có những trải nghiệm khác lạ khi xuất hiện trong một ánh sáng tích cực hơn.

Mark Steed, tu sỹ dòng Franciscan quản lý đền thờ Kateri trên bờ sông Mohawk, nói rằng sau hơn 30 năm làm việc giữa những người Mỹ bản địa, ông hạnh phúc khi thấy họ đã đạt được điều này.

"Họ đã bị dìm xuống, bỏ qua," Mark, người đàn ông 71 tuổi nói bằng một giọng nhẹ nhàng nhưng đanh thép. "Bởi vậy tôi nghĩ rằng với những người bị đàn áp, bất cứ ai nổi bật sẽ là một ưu thế."

Với rất nhiều người Mỹ bản địa, đặc biệt là trong cộng đồng thổ dân và những bộ lạc Iroquois khác nằm dọc biên giới Mỹ-Canada, sự phong thánh của Kateri đã chậm trễ hàng thập kỷ.

Vatican cần một một sự công nhận về một phép lạ của người phụ nữ thổ dân đã qua đời ba thế kỷ trước này và những báo cáo của các tín đồ: mọi thứ kể cả việc chữa bệnh cho người ốm để nhấc một người bay lên khỏi mặt đất và rồi xuất hiện lơ lửng trong những bộ quần áo da thú.

Không câu chuyện nào trong số đó được thẩm định. Nhưng trong năm 2006, bác sỹ tại Seattle đã xác nhận một sự kiện đáng kinh ngạc.

Ngược lại mọi sự chẩn đoán, một cậu bé 11 tuổi người Mỹ bản địa bị mắc bệnh có thể dẫn đến tử vong do một loại vi khuẩn ăn thịt gây ra đã hồi phục hoàn toàn. Cha mẹ của cậu đã cầu nguyện tới Kateri.

Mặc dù cần thêm 5 năm nữa, câu chuyện này đã thuyết phục được Vatican, và tháng trước Giáo hoàng Benedict XVI đã quyết định phong thánh cho Kateri.

Những tín đồ của cô đã rất vui mừng. "Đó sẽ là một lễ kỷ niệm quan trọng đầu tiên," tờ Tin tức Tekakwitha công bố trong tháng 1.

Câu chuyện về cuộc đời của Kateri bao gồm cả nỗi tuyệt vọng và - với một vài người - đó là hy vọng được gieo mầm trong thời kỳ đầu hỗn độn khi người da trắng đến định cư.

Theo lịch sử, Kateri sống sót sau khi bị mắc bệnh đậu mùa năm 4 tuổi, nhưng mồ côi và gần như bị mù. Thảm kịch tiếp theo đó là một tấn công của những người định cư Pháp và các đồng minh bàn địa, những người này đã đốt cháy trụi ngôi làng của cô.

Một lần nữa, cô sống sót, và trong chục năm tiếp theo cô đã sống trong một ngôi làng mới được xây dựng bên sông Mohawk trong khu rừng gần đền thờ Kateri ngày nay, Và ở đó, khi 20 tuổi, cô đã được rửa tội và bước vào bốn năm cuối cùng có tính chất quyết định của cuộc đời mình.

Bị bộ tộc của mình tẩy chay, - Kateri - với cái tên Tekakwitha được dịch từ ngôn ngữ bản địa là "Kẻ vụng về" - đã chạy trốn đến một ngôi làng giờ đây ở Canada.

Mặc dù bị tàn phá bởi bệnh tật, cô săn sóc những người ốm khác và sống một cuộc đời khổ hạnh - bao gồm cả việc tự đốt cháy mình với than nóng - khiến những nhà truyền giáo và những người theo đạo phải ngưỡng mộ.

Truyền thuyết kể lại là khi qua đời ở tuổi 24, những dấu vết của bệnh đầu mùa trên gương mặt cô đột nhiên được xóa sạch.

Câu chuyện này vẫn còn truyền cảm hứng cho những người sống gần Fonda để tụ tập trong ngôi đền, hay trong ngôi nhà nguyện bằng gỗ 230 năm, nơi một bức tranh lớn về Kateri được treo phía sau bàn thờ.

Nhưng câu chuyện cũng gắn liền với lịch sử đen tối về cuộc chinh phục của những người châu Âu và vai trò của những người theo đạo Cơ đốc.

Tom Porter, người sống gần đền thờ Kateri, tin rằng Kateri đã góp phần trong việc hủy diệt dân tộc mình. "Cô ấy đã bị sử dụng," ông trả lời trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi.

Không giống như nhiều thổ dân Bắc Mỹ hiện đại, những người đã cải đạo hoặc không quan tâm đến tôn giáo nào, Porter đã hoạt động tích cực để khôi phục lại những tín ngưỡng cũ.

Ông sống cùng gia đình và một ít người trong một trang trại nơi họ tự trồng cây, nuôi gia súc và sử dụng ngựa để cày đất. Là một người đứng đầu bộ tộc thổ dân Bắc Mỹ lâu năm, Porter được đắm mình trong những tục lệ tinh thần của cha ông.

Mời một phóng viên đến để tham gia vào bữa ăn gia đình lớn trong ngôi nhà chính, Porter, người mang tên theo tiếng mẹ đẻ là Sakokwenionkwas, hay "Anh ấy sẽ giành chiến thắng," nói rằng mặt trời, mặt trăng và sấm sét quan trọng đối với người Iroquois hơn là thần thánh hay giáo hoàng.

"Cơ đốc giáo không phải là một đôi giày vừa với bất kỳ ai. Không phải giành cho đôi chân, hay trái tim, tâm hồn tôi," ông nói.

Là một người hài hước, Porter mang dấu ấn của những bộ lạc mình trên gương mặt đầy vẻ tự hào như thể một con đại bàng. Tuy nhiên, ông cũng không thể che giấu sự cay đắng của mình.

Đôi với ông, không có sự khác biệt giữa sự lan truyền của Cơ đốc giáo với những chính sách tàn nhẫn, bao gồm cả đồng hóa cưỡng ép trong các trường nội trú của chính phủ ở thế kỷ 20, được sử dụng để chinh phục những người Mỹ bản địa.

Ở tuổi 67, Porter đã chắc chắn rằng mỗi người trong số 5 con gái, 1 con trai và 11 người cháu của mình sẽ sống theo những tập tục truyền thống.

Ông nghĩ rằng Kateri có thể bị buộc phải trở thành một người Công giáo. "Tôi không biết liệu cô ấy có thực sự là một người Công giáo hay không," ông nói. "Họ rất nghèo tại thời điểm đó. Những người châu Âu đã phá hủy mọi thứ, mọi người đều thiếu thốn và đói kém, và nếu bạn muốn giúp đỡ bất kỳ ai bạn phải là một người Công giáo."

Porter thừa nhận rằng chỉ một số ít thổ dân bản địa đồng ý với ông. Ông thậm chí còn thừa nhận rằng một số người trong gia đình lớn của mình đã theo Kateri.

"Nó làm tan nát trái tim tôi," ông nói.

Tu sỹ Mark thừa nhận rằng đã có những tội lỗi "khủng khiếp" và quyết tâm hàn gắn vết thương.

Trong nhà nguyện bằng gỗ tại đền thờ Kateri, một mảnh chăn truyền thống bao phủ bàn thờ, giày đi tuyết và da nai treo trên các xà nhà, và các loại thảo mộc thiêng liêng như thuốc lá và cây xô thơm đang được sấy khô.

Có một cây thánh giá, tất nhiên rồi, nhưng cũng có những hình ảnh về cây cối và rùa tại trung tâm của huyền thoại bản địa này.

Chẳng bao lâu sau khi làm việc tại Fonda từ một năm trước, tu sỹ Canada đã gọi cho Porter. "Ông ấy rất ngạc nhiên," tu sỹ Mark nhớ lại.

Kể từ đó, cả hai đã thường xuyên gặp gỡ và khi họ có bất đồng, họ lắng nghe ý kiến của nhau, như một cặp đôi kỳ quặc đang tạo dựng hòao bình trên mảnh đất nơi một vị thánh trong tương lai dã từng sống.

"Ông ấy là một người bạn," Porter nói về tu sỹ Mark. "Khi tôi lớn lên, không có ai ghét bỏ các linh mục và nữ tu hơn tôi. Nhưng giờ tôi đã không còn như vậy. Và tất cả các kẻ thù của tôi đều trở thành bạn tốt của tôi"./.

P.V (Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục