Nước và dầu thô: Hai rủi ro lớn đối với tương lai nhân loại

Một chuyên gia kinh tế tại Mỹ nhận định việc giá dầu tăng do căng thẳng địa chính trị ở khu vực Trung Đông "không đáng lo trong ngắn hạn," nhưng sẽ gây hậu quả tiêu cực về dài hạn.
Khu vực bờ biển California, Mỹ. (Nguồn: Getty Images)
Khu vực bờ biển California, Mỹ. (Nguồn: Getty Images)

Các quốc đảo ở Thái Bình Dương sắp biến mất, Trung Đông đứng trước nguy cơ chiến tranh là hai chủ đề của các tạp chí trong tuần nhân chiến dịch Ngày Thế giới vì khí hậu 20/9 và trong bối cảnh khủng hoảng tại vùng Vịnh lâm vào bế tắc.

Tuần báo Courrier International tổng hợp hai vấn đề nghiêm trọng đang đe dọa nhân loại, giới thiệu bức thư của chuyên gia về rủi ro của Liên hợp quốc Robert Templer viết về tương lai quần đảo Maldives và các quần đảo Thái Bình Dương “sắp chìm trong nước biển” hoặc không thể sinh sống được nữa. Bức thư dài, tỉ mỉ kèm theo bản đồ dự báo thảm họa và những hệ quả địa chính trị đầy bất trắc.

[Nước biển dâng và những cuộc di cư không có ngày trở lại]

Chuyên gia Robert Templer cho biết, Thượng Hải, New York, Bombay, Singapore, Thành phố Hồ Chí Minh là những những thành phố sẽ bị nước biển phủ ngập một vài thập niên sau Maldives. Maldives không tránh được số phận này vì nhiệt độ trên Trái Đất tiếp tục gia tăng. Chỉ trong năm 2017, hai tỷ tấn băng đá ở Nam Cực tan thành nước.

Trong khi tại Trung Quốc, trong vòng 10 năm, 28.000 con sông bị khô cạn. Hệ quả đầu tiên là canh tác giảm năng suất, còn các đảo quốc như Maldives trong Ấn Độ Dương, hay Solomon, Fiji, Kiribati, Marshall, Tonga ở Nam Thái Bình Dương sẽ biến mất trong một tương lai gần ngay trong thế kỷ 21 này.

Công ước biển của Liên hợp quốc năm 1982 quy định biên giới trên biển dựa vào lãnh thổ và thềm lục địa. Khi đảo bị ngập thì lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế cũng bị thu hẹp theo.

Nếu nỗ lực ngăn chặn Trái Đất tăng nhiệt độ dưới 2 độ C vào cuối thế kỷ được bắt đầu trong năm 2019, thì cần giảm 10% lượng khí thải CO2 mỗi năm và cần 3.000 tỷ euro (3.300 tỷ USD) để thực hiện. Số tiền tuy khổng lồ, nhưng vẫn còn thấp hơn so với con số 5.000 tỷ USD hỗ trợ hàng năm cho ngành dầu thô và năng lượng hóa thạch nói chung.

Trong khi đó, một chuyên gia kinh tế tại Mỹ nhận định việc giá dầu tăng do căng thẳng địa chính trị ở khu vực Trung Đông "không đáng lo trong ngắn hạn," nhưng sẽ gây hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế thế giới về dài hạn.

Sau cuộc tấn công bất ngờ ngày 14/9 vào các cơ sở dầu mỏ quan trọng của Saudi Arabia khiến sản lượng dầu của nước này giảm một nửa, giá dầu Brent đã tăng hơn 15% chỉ trong một ngày và vượt mức 70 USD/thùng. Kể từ đó, giá dầu đã bình ổn hơn và kết thúc tuần giao dịch ngày 20/9 ở quanh mức 65 USD/thùng. Khu vực Trung Đông càng nóng hơn khi Mỹ và Saudi Arabia cáo buộc Iran đã thực hiện các vụ tấn công này.

[Thế giới đã được chuẩn bị tốt hơn trước các cú sốc dầu mỏ]

Cuộc tấn công trên đã khiến thị trường chao đảo và xuất hiện những nghi ngại về triển vọng nguồn cung dầu cho toàn cầu, cũng như tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế thế giới.

Tờ Wall Street Journal dẫn nhận định của các chuyên gia kinh tế cho biết các cuộc tấn công mới nhất nhằm vào các cơ sở sản xuất dầu của Saudi Arabia không tác động trực tiếp nhiều tới nền kinh tế Mỹ, song có thể khiến giá xăng tăng cao hơn và gia tăng áp lực tới tăng trưởng toàn cầu.

Trong khi đó, theo hãng tin Bloomberg, việc giá dầu tăng kỷ lục xảy ra vào thời điểm kinh tế thế giới đang bên bờ vực suy thoái. Mặc dù mức độ nghiêm trọng phụ thuộc vào việc tăng giá sẽ kéo dài bao lâu, song diễn biến này sẽ làm chậm nhu cầu trên toàn cầu và làm xói mòn niềm tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng vốn đã bị sa sút trong bối cảnh tranh chấp thương mại Mỹ-Trung.

Cú sốc giá dầu xảy đến trong bối cảnh có một loạt dấu hiệu cảnh báo đối với kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, theo hãng tin này, tác động từ việc giá dầu tăng sẽ khác nhau trên toàn thế giới.

Các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ sẽ chứng kiến thu nhập doanh nghiệp và thu nhập quốc gia gia tăng, trong khi các quốc gia tiêu thụ sẽ gánh thêm chi phí. Điều này có thể dẫn đến lạm phát và làm giảm nhu cầu. Do lạm phát không phải là mối quan tâm trước mắt trong nền kinh tế toàn cầu, mối lo ngại lớn hơn là tác động của cú sốc giá đối với nhu cầu toàn cầu vốn đang yếu đi.

Mặc dù vậy, một số nhà phân tích đã chỉ ra giữa bối cảnh kinh tế thế giới “hạ nhiệt” và tình trạng dôi dư nguồn cung, khả năng giá dầu đạt ngưỡng 100 USD/thùng tính đến hiện tại vẫn là khá thấp.

Ông Harry Tchilinguirian, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu hàng hóa tại ngân hàng BNP Paribas, giải thích rằng về bản chất, các nền kinh tế thế giới được chuẩn bị tốt hơn để đối phó các cú sốc giá dầu so với những năm 70 của thế kỷ trước. Khi đó, một loạt biến động địa chính trị tại Trung Đông đã khiến giá dầu thô tăng vọt chỉ sau vài tháng và khiến nhiều nền kinh tế phát triển “gục ngã.”

Lưu ý mới nhất gửi tới khách hàng của ngân hàng Commerzbank cũng có đồng quan điểm. Các nhà kinh tế của Commerzbank cho rằng hiện tại, một cú sốc giá dầu khó có thể dẫn tới những thiệt hại tương tự, bởi các quốc gia đã quen với các sự kiện như vậy.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là các nền kinh tế đã giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ. Chẳng hạn như mức tiêu thụ dầu ở Mỹ đã tăng từ 17,3 triệu thùng/ngày hồi năm 1973 lên 20,5 thùng/ngày trong năm 2018. Con số này chỉ tiến thêm 18% ngay cả khi Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế của Mỹ đã tăng 230%. Trong khi đó, ở Đức, các hộ gia đình trong năm 2018 chỉ dành 2,6% tổng các khoản chi tiêu cho nhiên liệu.

Nhiều nền kinh tế khác cũng có những bước tiến lớn trong việc giảm phụ thuộc vào dầu thô, nhờ vào các ngành công nghiệp tiết kiệm năng lượng và các nguồn thay thế như khí đốt tự nhiên hoặc năng lượng tái tạo. Ngoài ra, thế giới giờ cũng ít phụ thuộc hơn vào một vài nhà sản xuất lớn tại Trung Đông.

Ông Tchilinguirian đề cập đến hoạt động khai thác dầu mỏ tại Biển Bắc từ những năm 1980, hay hoạt động khai thác dầu ngoài khơi bờ biển Tây Phi và Brazil cũng như khai thác dầu cát của Canada. Mỹ, nước từng phụ thuộc rất lớn vào nguồn dầu nhập khẩu, cũng đã trở thành nhà sản xuất và xuất khẩu lớn trên thế giới nhờ hoạt động khai thác dầu đá phiến.

Giới phân tích cho rằng chính những yếu tố nêu trên sẽ giúp mọi việc “suôn sẻ” hơn trong trường hợp xảy ra những sự kiện gây gián đoạn nguồn cung như cuộc tấn công vào các cơ sở dầu của Saudi Arabia.

Các nhà phân tích lạc quan rằng ngay cả khi giá dầu vượt ngưỡng 100 USD/thùng vào giai đoạn từ năm 2011-2014, thì điều này cũng sẽ không dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế thế giới./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục