Thăm mốc “3 cạnh” nơi biên cương cực Tây Tổ quốc

Đối với mỗi người dân Việt Nam, khi đặt chân lên đỉnh Khoan La San, được chạm tay tới mốc 0 là một lần trọn vẹn “thấm” hết sự thiêng liêng và lòng tự hào dân tộc.
“Mốc số 0 nằm trên đỉnh núi Khoan La San cao 1.862,26m so với mực nước biểnthuộc xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, là điểm cực Tây của Tổ quốc,nơi phân định ranh giới ba nước Việt Nam-Lào-Trung Quốc, nơi “một tiếng gà gáy banước cùng nghe.”

Đây là điểm khởi đầu để xác định đường biên, phân định rõ ranh giới của banước Việt Nam-Lào-Trung Quốc. Đối với mỗi chiến sỹ biên phòng hay bất cứngười dân Việt Nam nào, khi đặt chân lên đỉnh Khoan La San, được chạm tay tớimốc 0 là một lần trọn vẹn “thấm” hết sự thiêng liêng và lòng tự hào dân tộc.

Hành trình chinh phục đỉnh Khoan La San

Vượt hàng trăm km từ trung tâm thành phố Điện Biên Phủ, chúng tôi vào đến SínThầu cũng là lúc trời đã nhá nhem.

Đêm nghỉ chân tại bản Pờ Nhù Khồ (tiếng bản địa có nghĩa là Con trâu trắng) củangười dân tộc Hà Nhì, một trong 6 bản của xã Sín Thầu, chúng tôi được trưởng bảnKhoàng Á Phèn kể về hành trình hơn 40 năm người Hà Nhì đặt chân lên vùng đấtbiên cương cực Tây đất nước, ngược xuôi các dòng suối tìm đất trồng lúa nước vàlập nên hai bản Tả-Kho-Khừ và A-Pa-Chải… Đêm biên cương tĩnh mịch, nhưng cácthành viên trong đoàn chúng tôi không thể chìm sâu vào giấc ngủ.

Lời “gợi mở” vềđịa danh mốc số 0 của Thượng úy Hà Việt Hùng, Đội trưởng Đội vận động quầnchúng, Đồn biên phòng A Pa Chải“… khi đặt chân lên đỉnh Khoan La San, được sờtay tới mốc số 0, các bạn mới “thấm” hết sự thiêng liêng và lòng tự hào dân tộc”như thôi thúc chúng tôi ngày mai phải “xé” dãy Pu Đen Đinh, chinh phục đỉnhKhoan La San, nơi có mốc số 0 kỳ vĩ, đẹp bậc nhất, nhì trong các mốc biên giớicủa Đông Dương ngự trị.

Khi những dải mây trắng còn ôm ấp, trườn mình trên những dãy núi trùng điệp,chúng tôi đã có mặt đông đủ tại Đồn Biên phòng A Pa Chải để lên đường. Đoànchúng tôi hơn chục thành viên, gồm cánh phóng viên, nhà báo trẻ; các chiến sĩđồn Biên phòng A Pa Chải và 3 hơnhí (em gái) người Hà Nhì. Hoàn tất khâu chuẩnbị, kiểm tra hành lý, đồ đạc, quân trang và lương thực (muối vừng và cơm nắm nấubằng gạo chí chuổm có sắc tím), Trưởng đoàn, Thượng úy Hà Việt Hùng khởi lệnh“lên đường.”

Xe chúng tôi chênh vênh qua nhiều km núi đồi trên con đường hướng ra lối mở A PaChải, thông thương với nước Trung Quốc. Rời bản Tá Miếu gần chục phút, chúng tôirẽ trái vào con đường đất rộng, nhằm hướng mốc số 0 di chuyển. Chưa đầy 2km sau,chúng tôi phải rời xe ôtô, tiếp tục cuộc hành trình bằng phương thức “độc bộ.”Con đường đất nhão nhoét do những trận mưa đêm, sương rơi, đưa chúng tôi lên caodần, cao dần. Ở những khoảng trống, khi phóng tầm mắt ra xa, các bản Tả Khó Khừ,Tá Miếu, Lỳ Mà Tá... của người Hà Nhì dưới núi mờ nhòa, quần tụ như những chiếcbát úp đặt cạnh nhau; những nương lúa xanh mướt nối tiếp nhau trườn mình trênsườn núi.

Khi mặt trời dịch chuyển dần lên đỉnh đầu, hành trình của chúng tôi càng vất vảhơn khi đích mốc số 0 nằm trong “vùng rừng lạnh” cách chúng tôi 3 đỉnh núi cao,2 vùng “yên ngựa” với những trảng cỏ, lau lách phủ kín đầu sẵn sàng cứa vào tay,chân rớm máu; những km phải luồn mình dưới đại ngàn thâm u, ẩm ướt với vô sốtảng đá sắc lẹm áng ngữ lối đi.

Khó khăn nhất của chặng cuối hành trình này, ngoài việc vượt qua được những váchđá, núi dựng ngược khi chân tay đã rã rời, chúng tôi còn phải dũng cảm “kiêm”thêm một công việc là “càn quét” lũ vắt, đỉa đang vươn mình tua tủa trên lối đimà mùi mồ hôi, hơi thở của chúng tôi đã “phủ dụ”, khiêu khích chúng xuất hiện.

Đội hình di chuyển của chúng tôi đã chia làm 2 nhóm: Các binh nhất, binh nhì LòVăn Lợi, Sùng A Sình, Sùng A Phử có nhiệm vụ tiên phong mở đường cho đoàn; dẫndắt, bảo đảm sự an toàn cho 3 “hơ nhí” người Hà Nhì là Lỳ Go Mé (22 tuổi), LỳPhù De (19 tuổi) - là chị em ruột và Pờ Khừ Dê (học sinh lớp 7). Còn lại chúngtôi theo chân Thượng úy Hà Việt Hùng tiếp tục cuộc hành trình.

Dọc đường leo dốc trơn, luồn đại ngàn thâm u, cơn khát, cơn đói của chúng tôiđược khỏa lấp bởi những chai nước suối, những đùm cơm được Sình, Phử, Lợi ý tứđặt lại trên những tảng đá. Tuy nhiên, việc bị ngã, phải bò sấp để thắng nổinhững đoạn dốc trơn trượt thì không ai có thể làm thay ai. Quần áo chúng tôi ướtsũng, miệng thở hộc tốc dù đã đều đặn ôm cây nghỉ dọc đường.

Vất vả là thế, nhưng đổi lại, thiên nhiên cũng bù đắp cho chúng tôi được mãnnguyện chứng kiến cảnh rừng già tuyệt đẹp: Mây mù như từ thời thượng cổ giăngmắc, bủa vây bốn bề; những cây cổ thụ khổng lồ, rêu mốc, lan rừng, cây ký sinhbám dày từ gốc lên ngọn, từ thân sang cành, sang nhánh. Kỳ hoa dị thảo với nhữngsắc màu sặc sỡ, hình thù lạ mắt cũng xuất hiện trên đường chúng tôi đi.

Sau gần 4 giờ đồng hồ, chúng tôi đã được tận hưởng cảm giác trọn vẹn một lần“thấm” hết sự thiêng liêng và lòng tự hào dân tộc, trong niềm vui vỡ òa khi tậntay sờ được mốc số 0 “3 cạnh” trên đỉnh Khoan La San hùng vĩ.

“Tâm nguyện” bên mốc số 0

Sau “nghi thức” chào và kiểm tra mốc số 0 của các chiến sĩ đồn Biên phòng A PaChải, chúng tôi ai nấy tha hồ chụp ảnh, chạm tay lên mốc, lên Quốc huy của quốcgia mình mà không biết chán. Sự mệt mỏi trong mỗi người cũng đã tiêu tan.

Thượng úy Hà Việt Hùng cho chúng tôi biết: “Đồn 317 A Pa Chải có nhiệm vụ quảnlý 36km đường biên giới với 18km giáp Lào gồm 7 mốc; 18 km giáp Trung Quốc từmốc 1 đến mốc 7 và chân mốc 0. Đây là mốc đại, làm bằng đá hoa cương, có chiềucao 2m, hình khối tam giác đặt trên trụ hình lục lăng với ba mặt quay về hướngba quốc gia Việt Nam-Lào-Trung Quốc. Trên mỗi mặt có hình Quốc huy của quốc giađó, tên quốc gia bằng chữ viết riêng và năm đặt cột mốc - năm 2005.”

Thượng úy Hà cho biết thêm: Trong số 15 mốc mà Đồn có nhiệm vụ quản lý thì chặngđường tuần tra mốc số 0 là hành trình có phần đỡ vất vả hơn. Bởi theo anh, cónhững mốc như mốc A2 trên biên giới Việt Nam-Lào, các chiến sỹ của đồn phảimất thời gian 3 ngày 2 đêm mới hoàn thành chuyến tuần tra. Đường tuần tra cónhững lúc phải bám dây leo, đu mình trên vách đá. Chưa kể những chuyến gặp mưato, lũ lớn, đường tuần tra bị cắt đứt thì phải mất hàng tuần, nửa tháng cắt rừngcác chiến sĩ mới về được đơn vị.

Chưa dứt khỏi sự ngạc nhiên, khâm phục tinh thần của các chiến sỹ đồn biên phòngA Pa Chải trước những vất vả trên con đường thực hiện nhiệm vụ, một trận cườibỗng vỡ òa trước “hành động” của binh nhì Sùng A Sình, người dân tộc Mông ở bảnMa Lù Thàng, xã Huổi Lèng, huyện Mường Chà. Sình đi quanh mốc số 0 trong khi tayđang cầm điện thoại gọi cho bạn: “Alo, bạn của tôi à. Tôi đang ở Lào đây… Không,không phải nữa rồi, tôi đang ở Trung Quốc… Thật mà, giờ tôi đã về đất nước ViệtNam thân yêu của chúng ta rồi… Ừ, ừ…” Hòa chung trận cười của chúng tôi, Sìnhcũng nở nụ cười lém lỉnh, vô tư đầy chất lính.

Qua trò chuyện, chúng tôi được biết, Sình về Đồn A Pa Chải công tác đã hơnmột năm, bàn chân Sình đã đi đến nhiều mốc trên tuyến biên giới Việt Nam-TrungQuốc, lần lên mốc số 0 này của Sình là lần thứ 93, bằng đúng 2 số cuối năm sinhcủa Sình. Như sợ chúng tôi không tin về lời mình vừa nói, Sình tiếp: “Mỗi năm,có nhiều đoàn lên mốc 0 lắm, không nhớ được, nhưng người có độ tuổi lớn nhấtchinh phục mốc số 0 là ông già trên 70 tuổi, ở tận miền Nam. Người ít tuổi nhấtlà con trai 4 tuổi của Đại úy Hoàng Kim Thành, Chính trị viên phó của Đồn 317.”

Lý do Sình giải thích đi nhiều, không sợ mệt bởi “7 tuổi em đã biết leo núi, đinương phụ giúp gia đình làm ra hạt lúa, bắp ngô rồi, nên đi mốc không mệt nữađâu mà. Vào biên phòng, cứ mỗi lần đi mốc là một lần em thử thách mình có đủ sứckhỏe, ý chí để làm người lính hay không. Mỗi lần lên mốc, em thấy vui lắm.”

Binh nhất Lò Văn Lợi, 19 tuổi, ở Bản Mới, xã Ẳng Nưa, huyện Mường Ẳng, lần đầutiên lên mốc số 0 cho biết: “Mặc dù đường dài, khó đi, nhưng em cảm thấy rấtvinh dự và thiêng liêng khi lên đến mốc số 0. Là một người lính biên phòng, emhứa sẽ tích cực học tập, rèn luyện để khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệmvụ được giao, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới của Tổ quốcmình."

Lỳ Go Mé, vừa tốt nghiệp Trường cao đẳng sư phạm Điện Biên tâm sự: Bản Tá Miếucủa người Hà Nhì chúng em được tách từ bản A Pa Chải năm 2002. Nay bản có 31 hộ,162 người . Hơn 100 mùa trăng rồi, người Hà Nhì trong bản em đã có những đổithay lớn, không còn lo đói nghèo, thiếu ăn như những năm trước đây nữa. Để đónggóp sức mình cho bản, cho đồng bào dân tộc Hà Nhì mình, em sẽ ở lại chính quêhương dạy học cho các em nhỏ của bản, của xã Sín Thầu anh ạ.

Tạm biệt mốc số 0, rời xa mảnh đất biên viễn Sín Thầu với biết bao bịn rịn, xaoxuyến, nhưng lòng chúng tôi ấm lại vì biết rằng linh hồn, hình hài sông núi củaTổ quốc đã có các anh - những chiến sĩ biên phòng ngày đêm canh giữ; ở tận cùngnơi hiểm yếu biên cương vẫn sáng tình đất nước./.

Xuân Tiến (TTXVN)

Tin cùng chuyên mục