Thị trường nông sản tuần qua: Giá lúa, gạo tiếp tục tăng khá

Giá lúa thường tại ruộng cao nhất là 6.050 đồng/kg, giá bình quân là 5.900 đồng/kg, tăng 214 đồng/kg; giá lúa thường tại kho cao nhất 7.550 đồng/kg, trung bình là 6.858 đồng/kg, tăng 183 đồng/kg.
Thị trường nông sản tuần qua: Giá lúa, gạo tiếp tục tăng khá ảnh 1Đóng gói sản phẩm gạo xuất khẩu của Công ty TNHH Gạo Vinh Phát ở phường Thới Thuận, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Trong tuần qua, số liệu từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho thấy, giá lúa và gạo ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục tăng khá.

Giá lúa thường tại ruộng cao nhất là 6.050 đồng/kg, giá bình quân là 5.900 đồng/kg, tăng 214 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho cao nhất 7.550 đồng/kg, trung bình là 6.858 đồng/kg, tăng 183 đồng/kg.

Giá các mặt hàng gạo cũng có sự tăng tốt. Gạo 5% tấm có giá cao nhất 10.050 đồng/kg, giá bình quân 9.814 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 9.750 đồng/kg, giá bình quân 9.592 đồng/kg, tăng 183 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 9.450 đồng/kg, giá bình quân 9.367 đồng/kg, tăng 192 đồng/kg. Gạo lứt loại 1 có giá trung bình là 9.217 đồng/kg, tăng 254 đồng/kg.

Số liệu từ Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho thấy, giá lúa tại Sóc Trăng có sự tăng giảm tùy loại như OM 4900 tăng 300 đồng/kg, ở mức 6.700 đồng/kg; Đài Thơm 8 là 6.600 đồng/kg, giảm 200 đồng/kg. Riêng ST 24 ổn định ở mức lên 8.200 đồng/kg.

Tại Cần Thơ, giá lúa tuần qua không có biến động. Lúa IR 50404 đi ngang ở mức 6.000 đồng/kg; Jasmine là 7.100 đồng/kg; OM 4218 là 6.300 đồng/kg.

Tại Bến Tre, giá lúa ST tăng 200 đồng/kg, lên 7.200 đồng/kg; nhưng IR 50404 lại giảm 100 đồng/kg còn 5.500 đồng/kg.

[Giá lương thực thế giới giảm tháng thứ 6 liên tiếp sau khi lập kỷ lục]

Lúa OM 18 tại Hậu Giang cũng tăng 100 đồng/kg lên 6.600 đồng/kg, nhưng RVT lại giảm với mức tương tự còn 8.400 đồng/kg.

Giá lúa ở Tiền Giang có sự tăng, giảm tùy loại như IR 50404 tăng 100 đồng/kg còn 6.700 đồng/kg; nhưng Jasmine giảm 100 đồng/kg còn 7.300 đồng/kg; OC 10 giảm 200 đồng/kg còn 6.000 đồng/kg.

Hiện tỉnh Kiên Giang cơ bản thu hoạch xong lúa Hè Thu, năng suất bình quân 5,6 tấn/ha, sản lượng ước hơn 1,58 triệu tấn, đạt 100,61% kế hoạch.

Tuy nhiên, sản xuất vụ lúa Hè Thu 2022, nông dân gặp nhiều khó khăn, bất lợi như giá xăng dầu, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… tăng khá cao và đến nay vẫn giữ ở mức cao làm giảm lợi nhuận trong sản xuất. Trong khi đó, giá lúa trên thị trường giảm so với cùng kỳ các năm trước.

Với mức giá thương lái thu mua dao động 5.300-6.000 đồng/kg tùy theo giống lúa và chất lượng, sau khi trừ chi phí sản xuất, nông dân lợi nhuận thấp hoặc hoà vốn, thậm chí thua lỗ.

Đối với sản xuất vụ lúa Thu Đông 2022, tỉnh Kiên Giang gieo sạ được 69.181ha, bằng 86,4% kế hoạch, giảm 21.429ha so với cùng kỳ năm trước. Hiện tỉnh thu hoạch khoảng 44.000ha, năng suất bình quân ước đạt 5,4 tấn/ha.

Vụ lúa Đông Xuân 2022-2023, nông dân Kiên Giang gieo sạ sớm khoảng 8.470ha, đạt khoảng 3% kế hoạch.

Xâm nhập mặn vào mùa khô 2022-2023 ở Đồng bằng sông Cửu Long được dự báo là sâu hơn trung bình nhiều năm. Ước tính vào đầu năm 2023, xâm nhập mặn có khả năng ảnh hưởng đến 60.000ha diện tích sản xuất lúa của một số địa phương ven biển gồm Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang. Do đó, những khu vực này sẽ phải đẩy nhanh gieo sạ vụ Đông Xuân sớm.

Trong khi thị trường lúa, gạo đang tăng giá tốt thì giá gạo 5% tấm xuất khẩu của Việt Nam không đổi ở mức từ 425-430 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 11/2021.

Một nhà giao dịch tại tình An Giang thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho biết nguồn cung trong nước đang ở mức thấp và giá gạo có thể cao hơn một chút trong những tuần tới.

Dữ liệu vận chuyển sơ bộ cho thấy 265.250 tấn gạo sẽ được xuất cảng Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ ngày 1-22/10; trong đó phần lớn gạo được xuất sang các nước Philippines, châu Phi và Bangladesh.

Trong khi giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn đi ngang thì giá gạo xuất khẩu của Thái Lan giảm xuống mức thấp của hơn 2 tháng trong tuần này do đồng baht suy yếu và nhu cầu giảm.

Giá gạo Thái 5% tấm được giao dịch ở mức từ 410-420 USD/tấn, giảm so với mức từ 415 -425 USD/tấn trong tuần trước đó. Các nhà giao dịch cho rằng giá gạo giảm là do nhu cầu không rõ ràng trên thị trường nước ngoài và trong nước.

Đồng baht Thái được giao dịch gần mức thấp nhất kể từ năm 2006 so với đồng USD, do những lo ngại dai dẳng về tăng trưởng toàn cầu và suy thoái.

Giá gạo đồ 5% tấm của nhà xuất khẩu hàng đầu Ấn Độ được báo giá ở mức từ 374-382 USD/tấn, không thay đổi so với tuần trước do lo ngại về mưa lớn làm ảnh hưởng đến sản lượng.

Một nhà xuất khẩu tại Kakinada ở bang Andhra Pradesh, miền Nam, cho biết sản lượng có thể sẽ được điều chỉnh giảm hơn nữa. Mưa đã làm ảnh hưởng nặng nề đến mùa màng ở các bang phía Bắc và phía Nam.

Lượng mưa lớn ở Ấn Độ đã làm hư hại lúa gạo ngay trước khi thu hoạch ở các bang sản xuất chính như Uttar Pradesh, Tây Bengal và Andhra Pradesh.

Ấn Độ sẽ cho phép xuất khẩu gạo tấm ra nước ngoài với khối lượng 397.267 tấn được hỗ trợ bằng thư tín dụng (LC) được phát hành trước ngày 8/9.

Về thị trường nông sản Mỹ, trong phiên giao dịch 14/10, giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn giao dịch Chicago, Mỹ (CBOT) đều giảm; trong đó giá lúa mỳ giảm nhiều nhất.

Chốt phiên này, giá ngô giao tháng 12/2022 giảm 8 xu Mỹ (1,15%) xuống 6,8975 USD/bushel. Giá lúa mỳ giao tháng 12/2022 giảm 32,5 xu Mỹ (3,64%) xuống 8,5975 USD/bushel. Còn giá đậu tương giao tháng 11/2022 giảm 12 xu Mỹ (0,86%) xuống 13,8375 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

Giá các mặt hàng nông sản trên sàn CBOT đều giảm do đồng USD mạnh lên và do các nhà giao dịch quan ngại về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất vào đầu tháng 11/2022.

Lưu lượng trên sông Mississippi của Mỹ sẽ tiếp tục giảm trong 2-3 tuần tới. Chi phí sà lan sẽ vẫn ở mức cao trong lịch sử, do đó sẽ gây áp lực lên giá thầu cơ bản trong nước. Nhu cầu ngô và lúa mỳ xuất khẩu của Mỹ rất lớn. Nếu thời tiết ở Brazil thuận lợi và giá đậu tương trên sàn CBOT không tăng, Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago sẽ bán ngô, đậu tương và lúa mỳ trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn.

Doanh số xuất khẩu của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 6/10 là 7,8 triệu bushel lúa mỳ, 7,9 triệu bushel ngô và 26,6 triệu bushel đậu tương. Cho đến nay, doanh số bán lúa mỳ của Mỹ ở mức 409 triệu bushel, giảm 7% so với cùng kỳ năm trước. Doanh số bán ngô của Mỹ ở mức 528 triệu bushel, giảm 51% và doanh số bán đậu tương của Mỹ đạt 1,037 triệu bushel, tăng 6,4%.

Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã công bố doanh số bán hàng mới; trong đó 392.000 tấn đậu tương Mỹ được bán cho Trung Quốc và 198.000 tấn được vận chuyển tới một điểm đến chưa xác định. Trung Quốc đã tích cực mua đậu tương Mỹ để dự trữ.

Thị trường nông sản tuần qua: Giá lúa, gạo tiếp tục tăng khá ảnh 2Các mẫu càphê đạt tiêu chuẩn càphê đặc sản Việt Nam. (Ảnh: Phạm Cường/TTXVN)

Thị trường càphê thế giới cho thấy, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá càphê Robusta trên sàn ICE Europe-London sụt giảm liên tiếp phiên thứ ba. Giá càphê Robusta giao tháng 11/2022 giảm 38 USD xuống 2.061 USD/tấn và giá càphê Robusta giao tháng 1/2023 giảm 46 USD xuống 2.051 USD/tấn. Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.

Tương tự, giá càphê Arabica trên sàn ICE US – New York cùng xu hướng giảm. Giá càphê Arabica giao tháng 12/2022 giảm thêm 5,45 xu Mỹ xuống 196,70 xu Mỹ/lb và giá càphê Arabica giao tháng 3/2023 giảm 3,05 xu My xuống 193,00 xu Mỹ/lb (1lb = 0,4535 kg). Khối lượng giao dịch rất cao.

Giá càphê nhân xô tại các tỉnh Tây nguyên của Việt Nam giảm thêm từ 700-800 đồng, xuống dao động trong khung 44.700-45.300 đồng/kg.

Giá càphê hai sàn tiếp tục giảm sâu khi các quỹ đầu cơ mạnh tay thanh lý trước đáo hạn hợp đồng quyền chọn kỳ hạn tháng 11/2022 do lo ngại rủi ro tăng cao trước áp lực của lãi suất và nguồn cung hứa hẹn dồi dào.

Các thị trường hàng hóa nói chung tiếp tục suy yếu sau các báo cáo chỉ số kinh tế Mỹ vượt quá mong đợi đã gây áp lực buộc Fed tiếp tục tăng lãi suất ở mức cao trong một kịch bản có thể xảy ra suy thoái toàn cầu.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cảnh báo mức lạm phát cao sẽ khiến nền kinh tế toàn cầu trở nên khó khăn, không dễ để quản lý và cơ quan này đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 từ mức 2,9% đưa ra hồi tháng 7/2022 xuống 2,7%, trong bối cảnh các nền kinh tế hàng đầu đang bị chững lại và các quốc gia khu vực Eurozone đang quay cuồng với khủng hoảng khí đốt và năng lượng.

Trong khi đó, việc sa thải Bộ trưởng Tài chính Vương Quốc Anh có thể khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn và cũng không ngăn cản được đồng bảng suy yếu./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục