Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu tham luận "Vững bước trên con đường Chủ tịch Hồ ChíMinh đã chọn, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của Ủyviên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trong hội thảo khoa học“Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hành trình tìm đường cứu nước,” tổ chức ngày 31/5, tạiThành phố Hồ Chí Minh. I Hôm nay, tại thành phố mang tên Bác, chúng ta long trọng tổ chức Hội thảo để kỷniệm 100 năm ngày Người ra đi tìm đường cứu nước. Tròn 100 năm trước, ngày 5tháng 6 năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng, Bác Hồ - lúc đó là người thanh niên yêunước Nguyễn Tất Thành đã bắt đầu cuộc hành trình 30 năm (1911-1941) tìm conđường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Vào thời điểm đó, không một aibiết rằng vận mệnh của dân tộc Việt Nam đã gắn liền với quyết định ra đi của mộtcon người mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng suốt phi thường ấy. Trên suốt chặng đường bôn ba qua nhiều châu lục, cuộc sống lao động đầy gian khổđã không làm Người chùn bước, trái lại, càng tôi luyện, hun đúc lòng yêu nướcnồng nàn và mục tiêu giải phóng dân tộc kiên định, thôi thúc Người tranh thủ mọicơ hội để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễnđấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộcđịa. Chính chủ nghĩa yêu nước cùng với những năm tháng tìm tòi không mệt mỏi vềlý luận và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế đã dẫn dắt người thanhniên Việt Nam Nguyễn Tất Thành bất chấp mọi hiểm nguy, đến với chủ nghĩa Mác -Lê nin, trở thành nhà hoạt động cách mạng quốc tế xuất sắc Nguyễn Ái Quốc. Sớmnhận thức được xu thế phát triển của lịch sử và tính chất của thời đại mới màCách mạng tháng Mười Nga mở ra, Người đã khám phá ra chân lý "chỉ có chủ nghĩaxã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và nhữngngười lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ." Khi đọc bản Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã vuimừng reo lên "Đây là cái cần cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúngta." Người nhận thức sâu sắc rằng cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợiphải đi theo con đường cách mạng vô sản do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạovà con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc là tiến lêncách mạng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc là điều kiệntiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, chỉ có làm cách mạng xã hộichủ nghĩa mới giữ vững và phát huy được những thành quả của sự nghiệp giải phóngdân tộc. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là con đường cách mạng dân tộcdân chủ do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ đế quốc, thựcdân, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên thựchiện cách mạng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sựvận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê nin, thể hiện tính quy luật của sự pháttriển lịch sử của xã hội Việt Nam, trở thành quan điểm xuyên suốt trong toàn bộtư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Đó chính làĐường kách mệnh cho dân tộc ta mà Người đã chọn. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong suốt hơn 80 năm qua,cách mạng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được nhữngthắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùngcách mạng Việt Nam dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh.
II
Ngay sau khi Cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ "... nếu nướcđộc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lýgì." Người khẳng định "Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng tadùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi, dùng máy móc trong công nghiệpvà trong nông nghiệp... Đó là con đường phải đi của chúng ta. Con đường côngnghiệp hóa nước nhà" và "công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấuchung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta.” Trong điều kiện cả nước phải dồn sức cho công cuộc giải phóng miền Nam, thốngnhất Tổ quốc, Ðảng ta đã kiên định con đường mà Người đã chọn - thực hiện hainhiệm vụ chiến lược: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và đưa miềnBắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định lànhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ. Đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960 đã đề ra đường lối tiến nhanh, tiến mạnh,tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội xác định “xây dựng một nền kinhtế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nôngnghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển côngnghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệpvà công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạchậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại.” Trong điều kiện chiến tranh, đất nước bị chia cắt, cơ chế kế hoạch hoá tập trungvà chủ trương công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, ưu tiên công nghiệp nặng đãgóp phần quan trọng trong việc huy động và tập trung nguồn lực cho công cuộcgiải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tuy nhiên, khi đất nước hoàn toàn độclập, toàn cầu hoá kinh tế, hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành những xuthế lớn của thời đại thì mô hình này trở nên lạc hậu, kém hiệu quả, kìm hãm sựphát triển. Tại Đại hội lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã phát động công cuộc Đổi mới, pháttriển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở cửa thu hút đầutư nước ngoài, tạo ra xung lực phát triển mới, đưa nước ta thoát khỏi tình trạngkhủng hoảng kinh tế-xã hội, đi vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốctế. Đại hội lần thứ VIII của Đảng năm 1996 đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệphóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước tacơ bản trở thành nước công nghiệp, có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiệnđại, có cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp vớitrình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất vàtinh thần của nhân dân được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dângiàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Qua 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, đất nước ta đã giành được những thànhtựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đặc biệt, trong mười năm thực hiện Chiến lượcphát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đãđạt được những thành tựu rất quan trọng, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân7,26%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao, đạt gần 15%/năm. Cơ cấu kinhtế chuyển dịch tích cực; năng lực sản xuất và tiềm lực kinh tế của đất nướckhông ngừng tăng lên, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tăng gấp 3,26 lầnnăm 2000, góp phần đưa nền kinh tế vượt qua tác động nặng nề của khủng hoảng tàichính - tiền tệ châu Á (1997-1998) và khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tếtoàn cầu (2008-2009). Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiệnrõ rệt; hệ thống an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng, công cuộcxóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu nổi bật, tỷ lệ hộ nghèo giảm2-3%/năm; thu nhập thực tế bình quân theo đầu người tăng hơn 2 lần. Đến năm 2010nước ta đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu thiên niên kỷ mà Liên hiệp quốc đềra cho năm 2015. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhómnước có thu nhập trung bình.
III
Chiến lược Phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 vừa được thông qua tại Đại hộilần thứ XI của Đảng, nhằm tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấnđấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,đã đưa ra một hệ thống các quan điểm, mục tiêu và các giải pháp lớn, gắn kết vớinhau hình thành một chỉnh thể phát triển. Tôi xin trình bày một số nội dung cốtlõi của Chiến lược được soi rọi bởi tư tưởng Hồ Chí Minh. 1. Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầuxuyên suốt trong chiến lược Khi xác định con đường phải đi là công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Chủ tịch Hồ ChíMinh căn dặn "công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa phải tiến hành từng bước" [6] ,"Phải bảo đảm chất lượng – Không nên chỉ dốc sức vào số lượng nhưng không bảođảm chất lượng, không tiết kiệm được nguyên liệu, vật liệu, không hạ được giáthành ..." Người nhấn mạnh "Tiến nhanh, tiến mạnh không phải là phiêu lưu, làmẩu. Phải thiết thực đi từng bước, phải tiến vững chắc. Phải nắm vững quy luậtphát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, nhữngbiện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Chớ đem chủ quan của mìnhthay cho điều kiện thực tế." Như vậy là, quan điểm phát triển bền vững đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảngta đặt ra từ rất sớm, nhưng trên thực tế quan điểm đó có lúc có nơi chưa đượcnhận thức đầy đủ và quán triệt sâu sắc trong hành động, vì vậy, kinh tế pháttriển còn kém bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnhtranh thấp. Đây là nguyên nhân sâu xa tác động tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩmô, làm giảm khả năng chống chịu của nền kinh tế nước ta trước những tác động từbên ngoài trong một thế giới toàn cầu hóa và biến động không ngừng. Đó là khuyếtđiểm lớn mà chúng ta, trước hết là những người lãnh đạo, quản lý - những học tròcủa Bác phải nghiêm túc khắc phục. Phải quán triệt sâu sắc, kiên trì thực hiệntư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đại hội XI về phát triển bền vững.
2. Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng Phát triển bền vững được đo bằng nhiều tiêu chí, bảo đảm sự gắn kết hài hòa giữatăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, cảithiện đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững, trước hếtphải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô - yếu tố quan trọng hàng đầu cho tăng trưởngbền vững; đồng thời, tăng trưởng bền vững sẽ tạo điều kiện để ổn định kinh tế vĩmô vững chắc. Vì vậy, vấn đề không chỉ là tăng trưởng mà quan trọng hơn là cáchthức tạo ra tăng trưởng. Trong thời kỳ chiến lược 2001-2010, tăng trưởng kinh tếcủa nước ta chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và nguồn lao động giá rẻ, chất lượngthấp. Điều này là khó tránh khỏi khi bắt đầu quá trình công nghiệp hóa. Khuyếtđiểm của chúng ta là duy trì quá lâu mô hình này. Đã đến lúc phải chuyển mạnhsang tăng trưởng theo chiều sâu dựa trên việc ứng dụng các thành tựu về khoa họccông nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện đại nhằm tăngnăng suất và hiệu quả sử dụng vốn, tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng nội địacao, giá trị gia tăng lớn, có sức cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sảnxuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là quá trình vừa tiệm tiến, vừa cách mạng.Tiệm tiến bởi không thể có ngay mọi điều kiện đáp ứng yêu cầu phát triển theochiều sâu ở tất cả các lĩnh vực được lựa chọn; tiệm tiến cũng còn là sự tích lũyvề lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Cách mạng là để tận dụng được ưu thế củanước đi sau, thực hiện chiến lược tiến nhanh, bắt kịp ở những lĩnh vực mà khoahọc công nghệ phát triển cao và chúng ta có điều kiện. Trên tinh thần này, Chiếnlược xác định "chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiềurộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừachú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.” Chuyển đổi mô hình tăng trưởng trước hết phải được triển khai trong các ngànhcông nghiệp và dịch vụ. Bởi lẽ đây là những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong nềnkinh tế, lại là những ngành có điều kiện chuyển đổi nhanh. Định hướng cơ bản làcơ cấu lại các ngành sản xuất công nghiệp cả về ngành, vùng và giá trị mới; pháttriển mạnh công nghiệp hỗ trợ; ưu tiên phát triển các sản phẩm có khả năng cạnhtranh; phát triển phù hợp các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Tậptrung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và côngnghệ cao; hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch tầm cỡ khu vực và quốctế; hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ giá trị gia tăng. Đồng thời, cần nhậnthức sâu sắc hơn vai trò quan trọng và thế mạnh của nông nghiệp nước ta trongtiến trình công nghiệp hóa gắn với đô thị hoá để tập trung sức xây dựng một nềnnông nghiệp đa chức năng; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mớivà không ngừng nâng cao đời sống nông dân. Phải tìm tòi những mô hình tổ chứcsản xuất phù hợp, có cơ chế để thực hiện mô hình ấy, hình thành những vùng sảnxuất hàng hoá lớn làm cơ sở đưa công nghiệp tác động vào nông nghiệp, áp dụngnhững tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra nền nông nghiệp sạch, năng suất cao,chất lượng tốt; bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến, lưu thôngtrong một chuỗi giá trị, phân phối lợi ích hợp lý giữa các công đoạn trong chuỗigiá trị đó. Đây chính là điều kiện để phát triển nền nông nghiệp bền vững, bảođảm lợi ích của nông dân. Tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong một thế giới mà toàn cầu hóa vàliên kết kinh tế ngày càng sâu sắc, cạnh tranh kinh tế diễn ra rất quyết liệt,các mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu không cònnguyên ý nghĩa kinh điển của nó. Điều đó càng đòi hỏi chúng ta phải có tư duytoàn cầu và hành động quốc gia để có cách làm sáng tạo. Ở đây, một lần nữa tưtưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển lại tỏa sáng. Trong quá trình tìm đến chân lýcách mạng, ngay từ năm 1924 Người đã nói "Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung"cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mácở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên mộttriết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âulà gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại.” Tư tưởng đó của Người đòi hỏi chúngta phải trên cơ sở những bài học lịch sử về tiến trình công nghiệp hóa mà cácnước đi trước đã trải qua và những đặc điểm kinh tế của thời đại, chúng ta phảitìm ra cách đi phù hợp với những điều kiện cụ thể của nước ta. Không ai có thểnhìn rõ mọi vấn đề một lúc, nhất là trong bối cảnh thế giới biến đổi nhanh chóngvà khó lường như thời đại hiện nay. Điều cốt yếu là phải bám sát sự vận động củathực tiễn và kịp thời điều chỉnh, mà thực tiễn thì luôn luôn cụ thể và sinhđộng. Lê-nin từng nói "Lấy trừu tượng mà thay thế cho cụ thể, đó là một trongnhững lỗi lầm lớn nhất và nguy hại nhất trong thời kỳ cách mạng.” 3. Phát huy nhân tố con người, coi con người là động lực, là mục tiêu của sựphát triển Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng yếu tố con người, lấy dân làm gốc. Người nêuluận điểm nổi tiếng "Muốn xã hội chủ nghĩa phải có người xã hội chủ nghĩa” và"vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồngngười.” Thực tiễn khẳng định nguồn lực con người là yếu tố nội sinh năng động,là lợi thế cạnh tranh dài hạn của một quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trongđiều kiện khoa học công nghệ phát triển nhảy vọt trong thời đại chúng ta. Đây lànguyên lý cứng, là yếu tố bất biến trong một thế giới toàn cầu hóa và biến đổikhông ngừng. Hơn nữa, mục tiêu của phát triển kinh tế là vì con người và cho conngười. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 đã nêu rõ quan điểm “pháthuy tối đa nhân tố con người; con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mụctiêu của phát triển” và nhấn mạnh yêu cầu “nâng cao năng lực và tạo cơ chế đểnhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huymạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm sự đồng thuận cao trong xã hội, tạođộng lực phát triển đất nước”; coi phát triển nguồn nhân lực là một trong ba độtphá chiến lược. Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn vì saotrong điều kiện nước sôi lửa bỏng của những ngày đầu kháng chiến, Bác Hồ lạiphát động phòng trào “chống giặc dốt” cùng với chống giặc đói và giặc ngoại xâm,càng thấy tầm nhìn rất chiến lược của Bác và càng bồi hồi xúc động nhớ lại lờicăn dặn của Người trước khi vĩnh biệt chúng ta bồi dưỡng thế hệ cách mạng chođời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Thế hệ cách mạng cho đờisau chính là thế hệ thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo conđường xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”như Bác hằng mong muốn. 4. Nâng cao chất lượng thể chế, giải phóng mọi nguồn lực cho phát triển Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng hệ thống pháp luậtvà hoàn thiện thể chế. Người viết “trăm điều phải có thần linh pháp quyền.” Ngaysau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ,Người nêu nhiệm vụ cấp bách là “phải có một hiến pháp dân chủ” và chính Người đãchủ trì soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa -Hiến pháp năm 1946, đạo luật cơ bản, khuôn khổ thể chế quan trọng nhất của nhànước ta. Tư tưởng dân chủ, dân quyền của bản Hiến pháp này đến nay vẫn cònnguyên giá trị. Trong Di chúc Người viết Đảng phải có kế hoạch thật tốt để pháttriển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Chúngta cần hiểu kế hoạch mà Bác viết ở đây với cái nghĩa sâu rộng của cụm từ này. Nóbao gồm chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển và một hệ thống thể chế,chính sách nhằm huy động nguồn lực cho sự phát triển đó. Thực tiễn phát triển ởnhiều nước cho thấy thể chế chứ không phải tài nguyên thiên nhiên và vị trí địakinh tế là yếu tố quyết định sự phát triển. Một hệ thống thể chế phù hợp, cóchất lượng cao là điều kiện để huy động mọi tiềm năng sáng tạo của con người chophát triển, và chính hệ thống đó lại tạo ra môi trường rèn luyện năng lực và bảnlĩnh con người. Chính vì vậy, Chiến lược xác định “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường địnhhướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng vàcải cách hành chính” là một đột phá. Thực hiện tốt đột phá chiến lược này làđiều kiện cần để các chủ thể kinh doanh phát huy lợi thế so sánh sẵn có và khôngngừng tạo ra lợi thế so sánh mới, biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh,tạo nên hiệu quả và sự phát triển bền vững. 5. Hoàn thiện bộ máy nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước vàthị trường Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường luôn là một trong những vấn đề trung tâmcủa các học thuyết kinh tế. Về mối quan hệ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cónhững chỉ dẫn quý báu. Người nói “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm củadân” và “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân… Chính phủ chỉ giúp kếhoạch, cổ động.” Trong Thư gửi các giới công-thương Việt Nam ngày 13 tháng 10năm 1945, Bác viết “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động đểgiành lấy nền độc lập hoàn toàn cho nước nhà thì giới Công - Thương phải hoạtđộng để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chínhphủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp đỡ giới công-thương trong công cuộc kiếnthiết này.” Như vậy, Bác đã xác định rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và các chủ thểkinh doanh trên thị trường, theo đó, giới doanh nghiệp và nhân dân đóng vai tròquyết định, nhà nước “giúp kế hoạch,” tạo môi trường và “tận tâm phục vụ” chohoạt động kinh doanh của họ. Quán triệt tư tưởng đó của Người và từ các bài họccủa những cuộc khủng hoảng đã xẩy ra trong thế kỷ 20 và thập niên đầu của thế kỷ21, Đại hội XI của Đảng đã đề ra các định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện bộmáy nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường và khẳng định “Nhà nướcquản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụđiều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giámsát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tácđộng tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làmsai lệch các quan hệ thị trường.” Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trongviệc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu lực hiệu quả, thựchiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình, giải quyết đúng đắn mối quan hệgiữa nhà nước và thị trường, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững củađất nước.
IV
Lịch sử có những sự trùng hợp thú vị. Từ thành phố này, Bác Hồ đã ra đi tìmđường cứu nước. Và thành phố này cũng là một nơi khởi phát mạnh mẽ những tìm tòicon đường đổi mới, đưa nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội vào cuốinhững năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ 20, dẫn đến quyết định lịch sử của Đạihội Đảng lần thứ VI. Trong 25 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh luôn giữ được vaitrò tiên phong trong tiến trình đổi mới theo đường lối của Đảng. Là trung tâmlớn về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, thực hiệnNghị quyết số 01 và Nghị quyết số 20 của Bộ Chính trị, Đảng bộ và quân dân Thànhphố đã phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng động,sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn thách thức, đạt được những thành tựu to lớntrên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, anninh, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mười năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố luôn ở mức 2 consố, đạt bình quân 11,2%/năm, đóng góp khoảng 30% ngân sách Nhà nước, 20% GDP và30% sản lượng công nghiệp của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh thực sự đóng vaitrò đầu tàu trong phát tri ển kinh tế-xã hội của cả nước. Bước vào thời kỳ phát triển mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đấtnước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế với những cơ hội và tháchthức đan xen rất phức tạp, Thành phố Hồ Chí Minh cần phấn đấu với quyết tâm caohơn nữa, năng động và sáng tạo hơn nữa. Tôi muốn nhấn mạnh rằng quá trình táicấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thường bắt đầu từ nhữngđịa bàn có chất lượng nguồn nhân lực cao, là trung tâm khoa học công ngh ệ, từđó lan toả ra các địa bàn khác. Đây là vấn đề có tính quy luật. Thành phố Hồ ChíMinh cần nhận thức sâu sắc quy luật đó để phát huy tốt nhất lợi thế của mình,tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp rất khó khăn nhưng cũng đầy hào khí cách mạngnày. Cần hiểu đúng phương châm chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theochiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa chiều rộng với chiều sâu, vừa mở rộng quymô, nâng cao chất lượng hiệu quả và tính bền vững không phải được thực hiện dànđều trên mọi địa bàn. Với vị thế của Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các trung tâm kinh tế lớn, pháttriển theo chiều sâu phải là hướng đi chủ yếu. Cần tập trung phát triển cácngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường, các dịch vụ có giátrị gia tăng lớn, xây dựng nền nông nghiệp sạch, đi đôi với đầu tư phát triểnnhanh kết cấu hạ tầng và tăng cường chất lượng quản lý đô thị, tập trung giảiquyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc. Đồng thời, Thành phố phải rất coitrọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để đi đầutrong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng và phát triển kinh tế tri thức. Từ đó,tạo tác động lan tỏa, góp phần thúc đẩy qúa trình chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổimô hình tăng trưởng ở cả khu vực phía nam và trong cả nước. Đây là sứ mệnh rấtvẻ vang của Đảng bộ và quân dân Thành phố mang tên Bác. Chúng ta tin tưởng rằngThành phố Hồ Chí Minh sẽ phát huy truyền thống tốt đẹp, làm tốt hơn nữa vai tròtiên phong của mình trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* * *
Chín năm sau khi rời Bến Nhà Rồng đi tìm đường cứu nước, Bác Hồ của chúng ta đãđến với Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc điạ, bắt đầu quá trìnhhình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Là bậc Đạinhân, Đại trí, Đại dũng, trải qua "cuộc đời hoạt động oanh liệt, đầy gian khổ hysinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”, tư tưởngđó không ngừng được Người bổ sung, phát triển đạt đến tầm cao minh triết, trởthành "tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta.” Dướiánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bướctheo con đường mà Người đã chọn. Đó là con đường của độc lập dân tộc và chủnghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt thời gian, đưa đất nước và dân tộc tavượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới, tiếnhành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển,từng bước tiến lên "sánh vai các cường quốc năm châu," thực hiện dân giàu, nướcmạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộcvà sức mạnh của thời đại, với sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước vàsự nỗ lực phấn đấu của toàn xã hội, chúng ta sẽ vững bước trên con đường Chủtịch Hồ Chí Minh đã chọn, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thựchiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đến năm 2020 nước ta cơ bảntrở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhiệm vụ đặc biệt quan trọngtrước mắt là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tập trung mọi nỗ lực để kiềmchế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì sản xuất, bảo đảm an sinh xã hội,phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2011./.