Được thiên nhiên ưu đãi nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, Bắc Giang là mảnh đất giàu truyền thống với lịch sử lâu đời, nhiều làng nghề truyền thống, các lễ hội đậm chất văn hóa và nhiều sản vật ngon nổi tiếng.
Nhắc đến Bắc Giang, không thể không nói đến vẻ đẹp văn hóa tâm linh, đặc biệt là chùa Vĩnh Nghiêm, nơi được coi là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm.
Chùa Vĩnh Nghiêm nằm giữa làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ngôi chùa này còn được biết đến dưới tên gọi khác là chùa Đức La và lễ hội diễn ra tại đây thường được gọi là Lễ hội La.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Giang đã lấy hình ảnh cổng tam quan chùa Vĩnh Nghiêm làm biểu trưng (logo) du lịch tỉnh. Logo được tạo nên từ những khối mảnh lớn, mạnh mẽ, tối giản, trẻ trung, tạo ra ấn tượng mạnh khi nhận diện thương hiệu Bắc Giang.
Lịch sử chùa
Chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng vào thời Vua Lý Thái Tổ (1009-1028) với tên gọi là Chúc Thánh. Đến thời Vua Trần Nhân Tông (1278-1293), chùa được mở mang, trùng tu lại và đổi tên thành Vĩnh Nghiêm.
Cuối thế kỷ 19, chùa thuộc địa phận thôn Đức La nên nhân dân trong vùng còn gọi là chùa La hay chùa Đức La.
Chùa từng là nơi thuyết pháp của Trúc Lâm Tam Tổ (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang) và là nơi đào tạo, định chức danh cho các tăng sỹ thời Trần. Nơi đây được coi là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm, có vị trí đặc biệt trong lịch sử Phật giáo thời Trần nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
Kiến trúc giàu bản sắc của Phật giáo
Nằm trên một quả đồi thấp, sau lưng là dãy núi Cô Tiên, mặt hướng ra nơi tụ hội của sông Thương và sông Lục Nam, chùa Vĩnh Nghiêm có tổng diện tích khoảng 1ha với lối kiến trúc đăng đối, cân xứng, hài hòa, bao gồm 5 tổ hợp chính là Tam quan, Tam bảo, Nhà Tổ đệ nhất, gác chuông và Nhà Tổ đệ nhị. Mỗi tổ hợp này được xây dựng với mục đích và chức năng riêng biệt trong nghi lễ tôn giáo và cuộc sống hàng ngày của các phật tử.
Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc chùa tháp truyền thống của Việt Nam, bao gồm sự cân đối và quy chuẩn trong việc xây dựng các công trình, với các mái chùa cong và các tòa nhà có hình dáng đặc trưng.
Kiến trúc của chùa Vĩnh Nghiêm giàu bản sắc của Phật giáo Việt Nam. Đây là một trong những ngôi chùa cổ duy nhất mà không nơi nào trong vùng có thể sánh bằng, được xem là một “đại danh lam cổ tự” của Phật giáo Việt Nam.
Trong khuôn viên chùa, có một tấm bia đá to gồm 6 mặt, dựng năm Hoằng Định thứ 7 (1606). Ngoài ra, có một vườn tháp mộ chứa di tích của 5 vị sư quan trọng, nhấn mạnh sự tôn trọng và bảo tồn kỷ vật tôn giáo.
Những điểm nổi bật tại chùa
Chùa Vĩnh Nghiêm đã trải qua nhiều giai đoạn tu sửa và bảo tồn để duy trì tính nguyên vẹn của kiến trúc và di tích lịch sử. Mọi công trình tu sửa được thực hiện theo lối cổ xưa để không làm mất đi bản sắc văn hóa hàng ngàn năm.
Trong khuôn viên chùa, bạn có thể thấy nhiều tượng Phật, bao gồm tượng các vị Tổ của dòng Trúc Lâm, tượng Hộ pháp và tượng La Hán. Các tượng này được tôn vinh và thờ phụng bởi các phật tử và đạo sĩ thường xuyên đến chùa.
Trong chùa có một chiếc mõ đặc biệt, dài gần nửa mét, được sơn đen bóng và có lỗ thoát âm có đề hai dòng chữ Phạn. Đây là một trong những di tích độc đáo của chùa và có giá trị lịch sử lớn.
Chùa Vĩnh Nghiêm từng là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo, do đó nó có một kho sách cổ quý giá. Trong kho sách này, có những bộ ván kinh cổ có từ hơn 700 năm, như Sa di tăng Sa di lì tỳ khiêu lỵ (348 giới luật), bộ Yên Tử nhật trình từ thế kỷ 15 (quá trình hình thành phái Trúc Lâm), Hoa nghiêm sớ, Di đà sớ sao, Đại thừa chỉ quán, Giới kinh ni và nhiều bộ sách khác. Những bản khắc này vẫn được lưu truyền với từng nét chữ sắc sảo và tinh tế. Chúng được coi là kho sách cổ vô cùng quý giá của người Việt Nam.
Kho mộc thư của chùa Vĩnh Nghiêm là nơi lưu giữ và bảo tồn hàng nghìn bản ván in, chứa đựng kiến thức tôn giáo, triết học và văn hóa của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỷ.
Tại chùa Vĩnh Nghiêm hiện nay vẫn giữ được 34 đầu sách với 3.050 bản ván khắc. Mỗi bản khắc bao gồm hai mặt, mỗi mặt có khoảng 2.000 chữ Nôm và chữ Hán. Điều này tạo nên một tài liệu vô cùng đa dạng và phong phú, phản ánh sự phát triển và thay đổi trong tôn giáo và văn hóa của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Kích thước của các mộc bản không giống nhau và tùy theo từng loại kinh sách. Bản khắc lớn nhất có chiều dài hơn 1m, rộng 40 đến 50cm, trong khi bản nhỏ nhất chỉ khoảng 15 x 20cm. Điều này cho thấy sự linh hoạt trong việc sản xuất và lưu trữ tài liệu tôn giáo.
Một điểm đặc biệt của kho mộc thư tại chùa Vĩnh Nghiêm là chất lượng bảo tồn vượt thời gian. Bề mặt các ván in thường được phủ một lớp màu đen bóng, đó là dấu vết của mực in còn sót lại trên bề mặt bản khắc sau những lần in ấn. Lớp mực in này đã bảo vệ các bản khắc khỏi bị mối mọt và ẩm mốc, giúp chúng tồn tại qua hàng trăm năm mà không hề bị hao mòn.
Năm 2012, mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương thuộc Chương trình Ký ức Thế giới.
Lễ hội chùa
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14/2 âm lịch hàng năm, phù hợp với thời tiết mùa Xuân, hợp mùa lễ hội.
Đây là một lễ hội lớn trong vùng, một sự thể hiện về ảnh hưởng to lớn của Phật giáo trong đời sống xã hội, đồng thời nó cũng biểu hiện tình cảm, sự sùng bái của nhân dân trong thôn xã đối với các vị tổ của Thiền phái Trúc Lâm: Trần Nhân Tông - một vị vua anh hùng, một nhà sư, một người đứng đầu giáo hội, cùng với Pháp Loa và Huyền Quang - những vị sư uyên bác.
Ngày nay, các nhà sư gọi là ngày giỗ tổ chùa. Do là ngày giỗ tổ chùa nên tính chất lễ hội ít mà tính chất lễ giỗ nhiều hơn.
Ngày 9/9/2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ngày 23/12/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định công nhận chùa Vĩnh Nghiêm là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt.
Trải qua hơn 700 năm, chùa Vĩnh Nghiêm vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn, trở thành chốn văn hóa tâm linh linh thiêng ở Bắc Giang cho du khách thập phương tham quan, chiêm bái./.
Về Quỳnh Lưu chiêm ngưỡng ngôi chùa bằng gỗ lớn nhất xứ Nghệ
Chùa Lam Sơn được xây dựng với nhiều hạng mục như đại hùng bảo điện, nhà thờ Tổ, tả hữu hành lang, lầu chuông, lầu trống, cổng tam quan và các công trình phụ trợ khác.