GDP năm 2022 tăng 8,02%: Mức tăng cao nhất giai đoạn 2011-2022

GDP năm 2022 ước tính tăng 8,02% và đây là mức tăng cao nhất trong 11 năm. Theo đó GDP bình quân theo giá hiện hành đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD và tăng 393USD so với năm 2021.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 188 triệu đồng/lao động, tương đương 8.083 USD/lao động, tăng 622 USD so với năm 2021. (Ảnh: TTXVN)

Theo báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2022 của Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 ước tính tăng 8,02% so với năm 2021 và đây là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022.

GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393USD so với năm 2021. Bên cạnh đó, năng suất lao động của toàn nền kinh tế đạt 188 triệu đồng/lao động (tương đương 8.083 USD/lao động, tăng 622 USD so với năm 2021).

Năng suất lao động năm 2022 tính theo giá so sánh đã tăng 4,8% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2022 đạt 26,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với năm ngoái).

Chế biến-chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng

Trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,8%, đóng góp 38,2%, khu vực dịch vụ tăng xấp xỉ 10%, đóng góp 56,7%, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,4%, đóng góp 5,1%.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,1%, đóng góp 2 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

[Năm 2022, vốn đăng ký của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 27,72 tỷ USD]

Bên cạnh đó, ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,5%, đóng góp 0,04% điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng tăng 5,2%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm và nNgành xây dựng tăng 8,2%, đóng góp 0,59 điểm phần trăm.

(Nguồn: TCTK)

Điểm sáng là khu vực dịch vụ với sự khôi phục và tăng trưởng mạnh mẽ, tốc độ tăng năm 2022 đạt 9,99%, cao nhất trong giai đoạn 2011-2022.

Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, như: Bán buôn, bán lẻ tăng 10% so với năm trước, đóng góp 0,97 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 11,9%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 40,61%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm…

Ngoài ra, hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9%, đóng góp 0,53 điểm phần trăm, ngành thông tin và truyền thông tăng 7,8%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm. Riêng, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội giảm 7,6%, làm giảm 0,13 điểm phần trăm do dịch COVID-19 đã được kiểm soát nên chi phí cho phòng, chống dịch bệnh đã giảm so với năm 2021.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, riêng ngành nông nghiệp với mức tăng 2,9%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Mặt khác, ngành lâm nghiệp tăng 6,1%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm và ngành thủy sản tăng 4,4%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.

Trong cơ cấu nền kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,9%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,3%, khu vực dịch vụ chiếm 41,3%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,5%.

Về sử dụng GDP năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,2% so với năm 2021, đóng góp 49,3% vào tốc độ tăng chung, tích lũy tài sản tăng 5,7%, đóng góp 22,6%, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,9%, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 2,2%, chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 28%.

Quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế

Lý giải kinh tế Việt Nam ghi nhận mức phục hồi ấn tượng trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều rủi ro và khó định đoán, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, phân tích kinh tế-xã hội nước trong năm 2022 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phải đối mặt với những thách thức lớn, biến động nhanh, khó lường và tính bất ổn cao. Lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ và buộc các quốc gia phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Bện cạnh đó là cạnh tranh chiến lược, địa chính trị giữa các nước lớn, xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, mưa bão, hạn hán… Những yếu tố này đã làm gia tăng rủi ro đến thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu.

(Nguồn: TCTK)

Trong nước, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hội năm 2022 và giai đoạn 2021-2025 mà Nghị quyết Đại hội XIII đề ra, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương theo dõi sát sao tình hình, sự thay đổi chính sách của các nước để kịp thời ban hành các chính sách tiền tệ, tài khóa và các giải pháp vĩ mô phù hợp.

Trên cơ sở đó, cả hệ thống chính trị vào cuộc đồng thời triển khai tích cực, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội.

“Nhờ đó, nền kinh tế nước ta phục hồi mạnh mẽ, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo. Môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện góp phần tích cực cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tạo được sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Kết quả, một số ngành đã có mức tăng trưởng cao hơn năm trước khi có dịch COVID-19,” bà Hương nói./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục