Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ không chỉ là thị trường tiềm năng mà còn là cửa ngõ quan trọng đưa sản phẩm Việt Nam thâm nhập thị trường Halal toàn cầu. Đây là nhận định của các chuyên gia tại hội thảo “Triển vọng xuất khẩu sang thị trường Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ - Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam” do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp Vụ Trung Đông - châu Phi, Bộ Ngoại giao và Hiệp hội Lương thực Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh (FFA) tổ chức chiều 18/12.
Ông Trần Phú Lữ - Giám đốc ITPC cho biết, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều yếu tố phức tạp và xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đặc biệt là khai thác thị trường Halal tại khu vực Trung Đông, đã trở thành hướng đi hiệu quả đối với doanh nghiệp trong nước.
Hiện nay, Trung Đông là thị trường nhập khẩu đầy năng động với giá trị hàng hóa ước đạt hơn 1.200 tỷ USD mỗi năm và có tốc độ tăng trưởng GDP ấn tượng từ 5% đến 6%. Thống kê trong 11 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các quốc gia trọng điểm trong khu vực như UAE đạt 5,4 tỷ USD, Ả Rập Saudi đạt 1,9 tỷ USD và Thổ Nhĩ Kỳ đạt 1,6 tỷ USD.
Riêng đối với TP. Hồ Chí Minh, xuất khẩu sang Ả Rập Saudi, Thổ Nhĩ Kỳ và UAE đều đang tăng trưởng tích cực trên 2 con số. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực bao gồm điện thoại và linh kiện, máy tính, sản phẩm điện tử, giày dép cùng các mặt hàng nông sản như hạt điều, gạo và hồ tiêu.
Bà Nguyễn Phương Trà - Vụ trưởng Vụ Trung Đông - châu Phi (Bộ Ngoại giao) nhấn mạnh, thị trường Halal đang sở hữu dư địa vô cùng tiềm năng, chiếm khoảng 25% dân số thế giới và dự báo quy mô kinh tế sẽ chạm mốc 10.000 tỷ USD trước năm 2028. Trong đó, riêng lĩnh vực thực phẩm Halal được kỳ vọng sẽ tăng mạnh từ 2.715 tỷ USD năm 2024 lên 5.911 tỷ USD vào năm 2033 với tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt khoảng 9%.
Riêng khu vực Trung Đông là thị trường có sức mua đặc biệt lớn với quy mô 500 triệu dân và tổng GDP đạt tới 3.600 tỷ USD. Khu vực này đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế mạnh mẽ với nguồn lực tài chính dồi dào và nhu cầu nhập khẩu thực phẩm rất cao, đạt mức 132 tỷ USD trong năm 2023.
Đáng chú ý, các quốc gia thuộc Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) phải nhập khẩu 85% nhu cầu lương thực, thực phẩm. Những thị trường nhập khẩu hàng đầu bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ với kim ngạch khoảng 22-23 tỷ USD, Ả Rập Saudi khoảng 20 tỷ USD và UAE đạt 16,2 tỷ USD. Các nhóm sản phẩm chủ lực mà khu vực này đang có nhu cầu lớn là sữa, thịt, gạo, thực phẩm chế biến và các loại đồ uống.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội mới, theo bà Trà, doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với thách thức không nhỏ, điển hình là sự đa dạng và phức tạp của hệ thống tiêu chuẩn Halal. Doanh nghiệp phải phân biệt rõ các quy định đặc thù của từng quốc gia như tiêu chuẩn GSO 993:2015 áp dụng tại các nước GCC, tiêu chuẩn HAS 23103:2012 của Indonesia, MS 1500:2019 của Malaysia hay tiêu chuẩn OIC/SMIIC 1:2019 được chấp nhận tại 56 quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC).
“Rào cản không chỉ nằm ở việc chi phí đạt chứng nhận cao và thời hạn hiệu lực ngắn, mà còn đến từ sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia xuất khẩu đi trước. Đặc biệt, doanh nghiệp cần cảnh giác với các rủi ro gian lận thương mại như yêu cầu trả phí phát hành không minh bạch hoặc giao hàng nhưng không nhận tiền. Việc thẩm định đối tác và đảm bảo các điều khoản thanh toán chặt chẽ là yêu cầu bắt buộc để bảo vệ quyền lợi kinh doanh”, bà Nguyễn Phương Trà lưu ý.
Để hiện thực hóa các cơ hội xuất khẩu, TP. Hồ Chí Minh cần thiết lập quan hệ hợp tác kết nghĩa với các trung tâm kinh tế lớn như Dubai hay Riyadh, thành lập Hiệp hội doanh nghiệp Halal và xây dựng các chính sách ưu đãi về thuế, lãi suất. Doanh nghiệp cũng được khuyến nghị chủ động tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại uy tín như Saudi Food Expo, Halal Trade Expo Dubai hay Hội chợ MIHAS tại Malaysia để kết nối trực tiếp với các hệ thống phân phối quốc tế.
Ông Ramlan Osman, Giám đốc Trung tâm chứng nhận Halal Quốc gia (HALCERT) Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, tiêu chuẩn Halal có sự tương đồng lớn với các tiêu chuẩn phát triển công nghiệp hiện đại như nguyên tắc của Hiệp ước Toàn cầu Liên Hợp Quốc (UNGC) và các tiêu chí Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG). Việc áp dụng thực hành Halal vì thế không chỉ phục vụ cộng đồng người Hồi giáo mà còn mang lại lợi ích cho tất cả người tiêu dùng thông qua việc đảm bảo an toàn, vệ sinh, phúc lợi động vật và phát triển bền vững.
Thách thức với doanh nghiệp muốn tham gia thị trường này là bắt buộc phải có nhân sự người Hồi giáo tham gia vào quá trình sản xuất hoặc giám sát, cùng với việc minh bạch hóa toàn bộ chuỗi cung ứng từ nguyên liệu đầu vào đến khâu đóng gói và vận chuyển qua hệ thống logistics chuẩn Halal.
Việt Nam hiện đã ban hành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) đồng bộ về Halal, bao gồm TCVN 12944:2020 về thực phẩm Halal, TCVN 13708:2023 về thực hành nông nghiệp tốt, hay mới nhất là TCVN 14230:2024 về dịch vụ du lịch thân thiện với người Hồi giáo. Đây là hành lang pháp lý và kỹ thuật giúp doanh nghiệp tự tin chuẩn bị nguồn lực để chinh phục các thị trường Halal khó tính nhất.
Chia sẻ về kinh nghiệm xuất khẩu, bà Thị Hồng Uytun - Nhà sáng lập Công ty HM Dragon Logistics and Consulting cho biết, Thổ Nhĩ Kỳ không chỉ là một thị trường tiêu thụ tiềm năng mà còn đóng vai trò là cửa ngõ quan trọng để hàng hóa Việt Nam tiến vào khu vực Trung Đông và thị trường Liên minh châu Âu (EU).
Bất chấp các biến động kinh tế toàn cầu gần đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ghi nhận mức tăng trưởng tích cực. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tập trung vào nhóm công nghiệp và điện tử như điện thoại, máy vi tính, máy móc, cùng các loại nông sản và nguyên liệu có thế mạnh cạnh tranh như hạt tiêu, hạt điều, cao su và xơ sợi. Song, tỷ trọng hàng xuất khẩu của Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn khiêm tốn ở mức khoảng 0,5%, cho thấy dư địa phát triển thị trường vẫn còn rất lớn nếu doanh nghiệp biết cách khai thác hiệu quả.
Tuy nhiên, doanh nghiệp cần lưu ý, Thổ Nhĩ Kỳ là quốc gia thường xuyên sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại đối với hàng nhập khẩu, đặc biệt nhắm vào những ngành sản xuất nội địa nhạy cảm như dệt may, da giày và thép. Bên cạnh đó, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm tại đây cũng nghiêm ngặt tương đương EU, đặc biệt là yêu cầu bắt buộc về chứng nhận Halal đối với thực phẩm và hàng tiêu dùng để phục vụ người dân theo đạo Hồi.
Để giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp khi tiếp cận thị trường Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ, chuyên gia khuyến nghị doanh nghiệp Việt Nam không sử dụng các phương thức trả sau mà nên ưu tiên phương thức Tín dụng chứng từ (L/C) không hủy ngang và có xác nhận từ ngân hàng uy tín; đồng thời tăng cường xác minh năng lực tài chính của đối tác trước khi ký kết hợp đồng.
Ngoài ra, việc đầu tư xây dựng thương hiệu riêng và tìm kiếm các thị trường ngách để tránh cạnh tranh trực tiếp cũng là chiến lược dài hạn cần được chú trọng để nâng cao vị thế hàng Việt Nam tại cửa ngõ Á - Âu này./.
Xuất nhập khẩu lập kỷ lục mới: Vẫn còn nỗi lo về năng lực nội địa
Ước tính tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2025 sẽ chạm mốc kỷ lục 920 tỷ USD, đưa Việt Nam lọt vào nhóm Top 15 quốc gia có kim ngạch thương mại lớn nhất thế giới.