Đây là năm thứ ba liên tiếp các nhà lãnh đạo thế giới bỏ lỡ cơ hội, bấtchấp một thực tế không thể thay đổi là giai đoạn 1 của Nghị định thư Kyoto sẽhết hạn vào ngày 31/12/2012, trong khi những tác động của biến đối khí hậu đãgần chạm ngưỡng không thể đảo ngược.
Nhu cầu phát triển nội tại, sự mâu thuẫn về lợi ích và bất đồng trong việcchia sẻ trách nhiệm cứu Trái Đất là những lý do chính khiến hội nghị COP 17 chỉđạt được cam kết chính trị yếu ớt, thay vì một thỏa thuận tham vọng để ngănnhiệt độ Trái đất tăng không quá 2 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp.
Có thể nói COP 17 là một trong những hội nghị nóng bỏng và gay cấn nhấttrong lịch sử các cuộc thảo luận về biến đổi khí hậu toàn cầu.
Sự gay cấn đó thể hiện rõ ngay từ ngày đầu và kéo dài suốt tiến trình thảoluận 14 ngày của hội nghị khi sự bất đồng quan điểm không chỉ được thể hiện giữahai nhóm nước phát triển và đang phát triển, mà còn trong chính nội bộ hai nhómnước này.
Trong nhóm nước phát triển, mâu thuẫn nổi lên sau khi Nga, Nhật Bản vàCanada cùng đồng loạt tuyên bố không tham gia giai đoạn 2 của Nghị định thưKyoto do những khó khăn về tài chính, những đòi hỏi khắt khe của việc cắt giảmkhí thải trong bối cảnh kinh tế phục hồi chậm chạp sau khủng hoảng, và quantrọng nhất là thiếu sự góp mặt của những “đại gia khí thải” trên thế giới như Mỹvà 4 thành viên nhóm BRICS, gồm Brazil, Nam Phi, Ấn Độ và Trung Quốc.
Sự thay đổi lập trường của Nga, Nhật Bản và Canada đã đẩy Liên minh châuÂu (EU) vào tình cảnh “đơn thương độc mã” trong cuộc chiến cắt giảm khí thảitoàn cầu. Và đây chính là lý do tại sao EU đã quyết định đưa ra bản đề xuất xâydựng một thỏa thuận ràng buộc mới với sự tham gia của “tất cả các ống khói lớntrên thế giới” từ năm 2015 để làm cơ sở đưa vào thực hiện từ năm 2020.
Ngoài ra, EU cũng là thể chế duy nhất tuyên bố sẵn sàng tham gia giai đoạn2 của Nghị định thư Kyoto theo đúng lộ trình quy định nếu những nước khác cũngthực hiện nghĩa vụ tương tự (tức phải cắt giảm 20% khí thải vào năm 2020 so vớimức của năm 1990).
Tuy nhiên, những nỗ lực của EU không đủ để đưa Nga, Nhật Bản và Canadaquay lại với "đoàn tàu" chống biến đổi khí hậu. Nó cũng không đủ để kéo 3 ốngkhói lớn nhất thế giới là Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ bước lên đoàn tàu chung.
Lý do mà Nga, Nhật Bản và Canada đưa ra là những nỗ lực cắt giảm của họchỉ như “muối bỏ bể” nếu không có sự tham của những “đại gia khí thải.”
Mỹ, nước phát triển duy nhất không tham gia Nghị định thư Kyoto, cũng đưara lập luận tương tự đối với sự vắng bóng của Trung Quốc và Ấn Độ, hai nước hiệnchiếm hơn 50% tổng lượng khí thải toàn cầu mỗi năm.
Thế nhưng, hai nền kinh tế mới nổi hàng đầu châu Á cũng có những lý lẽriêng của mình khi cho rằng họ không có nghĩa vụ phải gánh vác trách nhiệm lịchsử trong việc cắt giảm khí thải, khi mà chỉ số khí thải bình quân đầu người củahai nước này thấp hơn nhiều so với các nước phát triển và hiện ở mỗi nước đangcó hàng chục triệu người phải sống trong cảnh nghèo đói.
Trung Quốc và Ấn Độ khẳng định sẽ không hy sinh mục tiêu phát triển kinhtế để thực hiện các cam kết về cắt giảm khí thải ít nhất cho đến khi kết thúcNghị định thư Kyoto vào năm 2020 và cần tiếp tục duy trì “bức tường lửa” giữamột bên là các nước phát triển với cam kết cắt giảm khí thải bắt buộc và một bênlà những nước còn lại với những cam kết tự nguyện.
Trước sự bế tắc có nguy cơ đẩy hội nghị rơi vào thất bại, Liên minh cácquốc đảo nhỏ (AOSIS), các nước kém phát triển (LDCs), Braxin và nước chủ nhà NamPhi đã quyết định chọn cách tiếp cận mềm dẻo hơn khi quay sang ủng hộ đề xuấtcủa EU.
Sự hậu thuẫn của 120/194 nước vào những phút chót đã cứu hội nghị Durbantrước “một bàn thua trông thấy”, nhưng thực chất đây cũng chỉ là một cam kếtchính trị yếu ớt, thể hiện đúng bản chất phức tạp của vấn đề và là kết quả tấtyếu của việc các nước đặt lợi ích kinh tế cao hơn ý chí chính trị. “Thành quảhiếm hoi” sau “đêm trắng” cuối cùng của hội nghị là sự nhất trí về một lộ trìnhthương thảo cho thời kỳ cam kết mới.
Theo đó, thế giới sẽ có 4 năm (2012 – 2015) để thảo luận về khung cam kếtmới và 5 năm tiếp theo (2016-2020) để ký thông qua khung pháp lý này trước khichính thức đưa vào thực hiện sau năm 2020.
Điều này có nghĩa trong thời gian lẽ ra phải là giai đoạn 2 của Nghị địnhthư Kyoto (2013-2020), các nước được tùy cơ định liệu mục tiêu cắt giảm khí thảivà không phải chịu bất kỳ sự điều chỉnh nào từ Nghị định thư Kyoto, văn kiệnràng buộc pháp lý duy nhất cho đến nay quy định mục tiêu cắt giảm khí thải của37 nước công nghiệp.
Nói cách khác, mục tiêu của hội nghị COP 17 là đưa ra thỏa thuận về giaiđoạn 2 của Nghị định thư Kyoto đã không thành hiện thực, mà thay vào đó là mộtthỏa thuận về lộ trình xây dựng cam kết hoàn toàn mới.
Thế giới đã phải mất đúng 10 năm để xây dựng Nghị định thư Kyoto và mộtnửa số thời gian đó để văn kiện này chính thức có hiệu lực. Giờ đây, thế giới cóthể cũng sẽ phải mất ngần ấy thời gian để đạt được một khung cam kết hoàn toànmới.
Thậm chí, có ý kiến quan ngại thời gian đàm phán có thể sẽ còn kéo dài hơnvì bối cảnh nay đã khác trước rất nhiều. Trước đây, khi thảo luận và thông quaNghị định thư Kyoto, người ta chỉ quan tâm đến nghĩa vụ và trách nhiệm lịch sửcủa các nước phát triển.
Nay, các nhà thảo luận phải quan tâm đến cả trách nhiệm và nghĩa vụ củacác nền kinh tế mới nổi, đến sự cân bằng và chia sẻ lợi ích trong cuộc chơichung, và sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế cũng như địa chính trị nhằm tránhđi lại vết xe đổ của Nghị định thư Kyoto như trước đây.
Trong phát biểu kết thúc hội nghị, Chủ tịch COP -17, Ngoại trưởng Nam PhiMkoana Mashabane, cũng thừa nhận rằng những thỏa thuận đạt được tại Durban chưahoàn hảo.
Tuy nhiên, trước sự cấp bách của cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàncầu, trước một trận tuyến luôn đầy mâu thuẫn, thế giới phải biết học cách “chovà nhận.” Biết hy sinh những lợi ích trước mắt và đón nhận những quan điểm khácbiệt để cùng hướng tới mục tiêu lâu dài.
Điều này càng trở nên quan trọng khi thời gian để cứu Trái đất không cònnhiều, không cho phép thế giới lại có thêm một lần lỡ hẹn để rồi phải chứng kiếnsự tàn phá khủng khiếp của các thảm họa thiên nhiên./.