Mường Nhé cũng là nơi có khu bảo tồn thiên nhiên lên đến 45.500ha, trong đógần 28.000ha đất có rừng trải dọc biên giới Việt-Lào trên địa phận của 5 xã SinThầu, Chung Chải, Leng Su Sin, Mường Nhé, Nậm Kè. Đây được xem là khu bảo tồnthiên nhiên có nhiều loại động thực vật quý hiếm có tên trong sách đỏ; đồng thờicũng là khu vực rừng đầu nguồn sông Đà phía Việt Nam.
Đường vắt qua đèo cao, cheo leo bên vực sâu, trong tiếng vi vu của đại ngàn. Haibên đường hiện ra những cánh rừng hùng vĩ.Mường Nhé vượt trội hơn các huyệnmiền núi khác của Tây Bắc về tài nguyên rừng. Những loại gỗ quý như Pơmu, Thôngtre, Giổi thơm, Lát hoa… là xuất xứ từ những cánh rừng này; trong rừng còn cóđến 55 loài động vật, trong đó còn cả bò tót, hổ, gấu, báo, vượn đen… Nhưng vìsự giàu có này mà rừng bảo tồn Mường Nhé đang đứng trước nguy cơ từ rừng giàubiến thành rừng nghèo, thậm chí bị mất trắng vì dân di cư tự do.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Mường Nhé Trần Anh Tuấn trong cuộc trao đổivới phóng viên đã bày tỏ rõ những mối lo ngại về vấn đề này; trong tổng số hơn55.000 dân của huyện, số dân di cư tự do đến Mường Nhé chiếm hơn 50%, chủ yếu làngười Mông từ các tỉnh bạn đến.
Để có một cái nhìn khái quát về vấn đề di cư tự do phóng viên đã trao đổi vớinhiều cơ quan có trách nhiệm của tỉnh Điện Biên và huyện Mường Nhé, gặp gỡ nhữngcán bộ trực tiếp xử lý vấn đề hàng ngày, tham khảo ý kiến của các nhà quản lý vàcả người dân.
Có thể lấy mốc thời gian là năm 1998, năm mà dân di cư tự do bắt đầu tập trungvào huyện Mường Nhé. Từ 1998 đến nay có thể chia làm ba giai đoạn với những diễnbiến khác nhau. Giai đoạn 1998-2002 có gần 25.000 người di cư đến Mường Nhé tìmnhững địa điểm đất đai màu mỡ, có nguồn nước để khai hoang sản xuất.Thời kỳ nàynhững hộ dân di cư tự do đến là tìm nơi sinh sống tốt hơn nơi ở cũ, chưa có ảnhhưởng nhiều đến rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Đa số dân di cư giai đoạn này đãổn định cuộc sống, có hộ khẩu thường trú, được thụ hưởng đầy đủ các chính sáchcủa Nhà nước theo các chương trình, dự án cụ thể.
Giai đoạn 2003-2007 dân di cư tự do vào Mường Nhé với gần 7.200 người, họchọn nơi xa dân cư nhưng thuận lợi về nguồn nước để phá rừng làm nương. Như vậycó thể nói, từ những năm này rừng không còn là cái nôi che chở cho đất, chongười nữa mà đã trở thành “đối tượng” để những người di cư tự do khai thác, tànphá.
Giai đoạn từ 2007 đến nay có 8.674 người di cư tự do với thành phần rất phứctạp. Đa số các hộ gia đình này di cư vào vùng sâu vùng xa, vùng biên giới thuộc14/16 xã của huyên Mường Nhé. Những hộ dân này di cư trái phép vào khu rừngphòng hộ, rừng đầu nguồn, phá rừng làm nương gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môitrường, dẫn đến nguy cơ phá vỡ quy hoạch rừng phòng hộ, đặc dụng, khu bảo tồnthiên nhiên. Đáng lưu ý là tại các điểm di cư tự do thường bị các đối tượng lợidụng tôn giáo, tín ngưỡng truyền đạo trái pháp luật và dụ dỗ đồng bào gây rốitrật tự, lôi kéo người vượt biên trái phép.
Có thể nói diễn trình dân di cư tự do đến Mường Nhé là một diễn trình từ bìnhthường tới không bình thường. Bình thường khi rừng còn đất, người dân đến khaihoang lập nghiệp mưu sinh. Nhưng sẽ là bất bình thường khi rừng đã quy hoạch,không còn đất hoang, dân di cư tự do đến chiếm đất, phá rừng trái pháp luật, gâymâu thuẫn nghiêm trọng với dân địa phương.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Dân di cư tự do vẫn tiếp tục vào Mường Nhé có phảido sức hút từ sự giàu có của rừng không?.
Gần đây, nhất là hai ngày 9 và 10/4 năm nay, các cơ quan chức năng đã pháthiện hai xe khách chở năm hộ dân tộc Mông với 29 nhân khẩu từ Đắk Lắk ra định cưtại xã Na Cô Sa. Theo các cán bộ địa phương, xã Na Cô Sa không còn quỹ đất nênnếu để những hộ dân này vào ở có thể họ sẽ phá rừng và tranh chấp đất đai vớidân sở tại, nên chính quyền địa phương kiên trì thuyết phục họ quay về. Xã LengSu Sìn cũng là một điểm nóng của vấn đề di cư tự do.
Có một câu chuyện nữa liên quan đến vấn đề di cư tự do cũng rất đáng suy nghĩ.Trong buổi làm việc với ông Nguyễn Huy Lý, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Cao suĐiện Biên, ông cho biết dự án trồng cao su tại Điện Biên phát triển rất tốt. Tuynhiên, tại xã Mường Nhé có 88ha cao su giao cho công nhân người Mông, thực tế làcác hộ dân di cư tự do để chăm sóc. Nhưng khi cán bộ kỹ thuật đến, những côngnhân này không cho vào.
Kết quả là cao su chăm sóc không đúng quy trình sẽ bị chết, người dân lấy đấtlàm nương. Liên quan đến dự án trồng cao su, một sỹ quan biên phòng cho biếtnhiều người là dân di cư tự do được nhận vào làm cao su tranh thủ đưa cả giađình, anh em, con cháu ở nơi khác đến phá rừng, mang súng vào rừng bảo tồn, thậmchí còn vượt biên, khi bị phát hiện thì họ nói là công nhân cao su?!.
Rõ ràng là dân di cư tự do không thể sống nhờ rừng một khi rừng đang nghèo đivà đang co lại, đất rừng cũng không còn; và rừng cũng không thể yên khi dân chỉcòn biết dựa vào rừng. Nghịch lý giữa rừng và người là xuất phát từ cuộc sống.Nhưng cuộc sống của đồng bào các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khókhăn đã được thụ hưởng nhiều chính sách thông qua các dự án của Chính phủ.
Qua các dự án đó, dù chưa thể hết nghèo ngày một ngày hai, nhưng người dân sẽcó cuộc sống ổn định, có nhà ở, có đường đi, con cái được đến trường, ốm đauđược chữa bệnh. Cuộc sống đó tốt hơn cuộc sống di cư tự do đến nơi chưa được đầutư về cơ sơ hạ tầng, chưa có cả đơn vị hành chính.
Dù khó khăn là vậy nhưng dândi cư tự do vẫn tiếp tục nhắm về Mường Nhé, khi cán bộ địa phương đến vận độnghọ quay về quê cũ thì họ đưa ra cái lý rằng: “tên bắn đi không quay lại” để tiếptục ở lại phá rừng và tranh giành đất đai với dân địa phương, tạo ra các mâuthuẫn; và không ít trường hợp bị kẻ xấu lợi dụng mâu thuẫn này để tạo thành“điểm nóng” về tranh chấp đất đai, gây mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
Rừng Mường Nhé vẫn đang bị tàn phá theo nhiều hình thức khác nhau; hoặc là phátrắng, hoặc là biến rừng giàu thành rừng nghèo. Trên nhiều chặng đường của MườngNhé chúng tôi vẫn bắt gặp những khoảnh rừng thưa bị đốt làm nương rẫy. Điều đặcbiệt quan ngại là Quyết định 337/QĐ-UBND ra ngày 17/3/2009 của tỉnh Điện Biên vềviệc trưng dụng đất làm đường vận chuyển mốc lên biên gới Việt-Lào theo đó sẽ mởđường bằng cơ giới qua vùng lõi của khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé khoảng100km.
Nhiều ý kiến cho rằng con đường này nếu được triển khai sẽ không chỉ ảnhhưởng đến sự tồn tại các loài động thực vật đang sinh sống, mà còn tạo điều kiệncho lâm tặc và dân di cư tự do phá trắng rừng.
Có một hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc với chúng tôi khi đến Mường Nhé đó làhàng rào chắn hổ ở đồn biên phòng Leng Su Sìn và suối voi ngay gần đó.
Các chiếnsỹ biên phòng cho biết cách nay vài năm, khi chưa có con đường vành đai biêngiới từ trung tâm huyện Mường Nhé lên A Pa Chải, đêm hổ thường về bản bắt lợncủa dân, thi thoảng chúng cũng “ghé thăm” đồn. Vì vậy, đồn phải làm hàng ràochắn hổ. Còn suối voi là nơi voi hay về đây tắm. Nhưng từ khi dân di cư tự dođến, rừng bị phá thì voi và hổ chỉ còn lại trong câu chuyện kể; và hàng rào chắnhổ ở đồn biên phòng Leng Su Sìn còn lại như chứng tích của một thời giàu có củarừng…./.
Bài cuối: Nguồn lực của tương lai