Tương lai của mối quan hệ Mỹ-Nga trong ngành năng lượng

Mỹ và Nga hầu như không bán hoặc mua tài nguyên của nhau, cũng không có bất cứ dự án năng lượng chung nào, tuy nhiên năng lượng vẫn là nguồn gây bất đồng thường xuyên trong quan hệ giữa hai nước.
Cơ sở khai thác dầu tại Cotulla, bang Texas, Mỹ. (Ảnh: AFP/TTXVN)
Cơ sở khai thác dầu tại Cotulla, bang Texas, Mỹ. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Các ứng cử viên đảng Cộng hòa và Dân chủ có quan điểm đối lập hoàn toàn về sự phát triển của ngành năng lượng, nhưng có vẻ như cả hai lựa chọn đều báo hiệu không tốt cho ngành dầu khí của Nga.

Căng thẳng trong quan hệ Nga-Mỹ trong lĩnh vực nhiên liệu và năng lượng đã có từ lâu. Những tuyên bố chỉ trích lẫn nhau không chỉ mới tăng cường trong những năm gần đây mà trong tương lai, tình hình có thể ngày càng trầm trọng hơn.

Kinh tế hay chính trị?

Ngành năng lượng ngay từ đầu đã trở thành "nạn nhân" của căng thẳng chính trị song phương.

Mặc dù là những nước tham gia lớn nhất vào thương mại năng lượng thế giới, nhưng Mỹ và Nga hầu như không bán hoặc mua tài nguyên của nhau. Họ cũng hầu như không có dự án năng lượng chung nào trên lãnh thổ của mình hoặc trên lãnh thổ của các nước thứ ba.

Từ quan điểm về an ninh năng lượng quốc gia, cả Mỹ và Nga đều không phải đối mặt với các mối đe dọa nghiêm trọng, cả hai quốc gia đều tự cung tự cấp và họ không có gì để chia sẻ cho việc đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng bền vững của họ.

Bất chấp những dữ liệu ban đầu này, năng lượng vẫn là nguồn gây bất đồng thường xuyên trong quan hệ song phương.

Trong nhiều thập niên gần đây, hai nước đã chìm trong những xung đột công khai và tiềm ẩn liên quan đến lĩnh vực năng lượng, như khả năng tiếp cận công nghệ năng lượng (các lệnh trừng phạt trong lĩnh vực này đã đi cùng quan hệ song phương trong nửa thế kỷ), cạnh tranh trên thị trường khí đốt châu Âu (từ thỏa thuận đường ống khí đốt của Liên Xô đến cuộc đấu tranh hiện nay cho dự án Nord Stream 2 (Dòng chảy phương Bắc 2) và sự cạnh tranh giữa khí đốt của Nga và khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) của Mỹ) và ở khu vực Caspi (phát triển đường ống dẫn dầu và khí đốt bỏ qua Nga), ở Bắc Cực (tranh chấp quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên ở Bắc Cực).

Đã có những thời kỳ quan hệ Nga-Mỹ ấm lên khi các bên cố gắng tìm kiếm lợi ích chung và thậm chí bắt đầu các dự án chung, nhưng hầu hết đều không đạt được kỳ vọng.

Dự án dầu khí Sakhalin-1 ở Viễn Đông mà tập đoàn ExxonMobil của Mỹ tham gia vào năm 1996, có lẽ là ví dụ hợp tác thành công duy nhất. Mặc dù, nhiều kế hoạch trong dự án đó đã không thành hiện thực, ví dụ như xuất khẩu khí đốt.

Tuy nhiên, nhìn chung, không có một nỗ lực nào của các công ty Mỹ tham gia vào các dự án khí đốt lớn của Nga (ví dụ như dự án Shtokman), cũng như không có kế hoạch nào nhằm kết hợp nỗ lực của Rosneft và ExxonMobil để nghiên cứu và phát triển thềm lục địa Bắc Cực và Biển Đen và tạo ra một trung tâm nghiên cứu và phát triển chung ở Bắc Cực.

Đồng thời cũng thiếu đi những nỗ lực từ công ty Lukoil nhằm có chỗ đứng trên thị trường bán lẻ Mỹ, mà gần như tất cả đã không thành công.

Mặc dù, hợp tác song phương yếu, nhưng cho đến năm 2014, mâu thuẫn trong lĩnh vực năng lượng vẫn chưa đến mức đối đầu cởi mở mà chỉ dừng lại ở mức độ biểu tượng bằng cử chỉ, lời lẽ và nỗ lực gây ảnh hưởng ngoại giao ở các nước thứ ba.

Mọi thứ đã thay đổi trong vòng 5-7 năm gần đây, khi Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt dầu khí đối với Nga sau cuộc khủng hoảng Ukraine trùng hợp đồng thời với giai đoạn bùng nổ sản xuất dầu và khí đá phiến ở Mỹ.

Sự phát triển của ngành dầu khí đá phiến đã làm giảm mạnh sự phụ thuộc của nước Mỹ vào nhập khẩu hydrocarbon, và thậm chí biến nước này thành nhà xuất khẩu ròng đối với một số mặt hàng, ví dụ như LNG.

Điều này ngay lập tức đẩy Nga và Mỹ vào cuộc chiến giành thị trường lớn nhất thế giới đó là châu Âu và châu Á.

Kể từ năm 2011, Mỹ đã vượt qua Nga về sản lượng khí đốt hàng năm. Sau đó, xuất khẩu khí đốt của Nga đã chịu áp lực từ LNG của Mỹ, nhưng đó không phải áp lực thị trường quá lớn bởi chi phí sản xuất và vận chuyển khí đốt của Nga thấp hơn đáng kể so với Mỹ.

Đây thực tế là áp lực chính trị núp dưới các lời lẽ như giảm phụ thuộc nhập khẩu vào Nga và sự phản đối ngày càng tăng đối với các dự án đường ống dẫn của Nga.

Với dầu mỏ, tình hình lặp lại sau đó ít lâu, đó là vào năm 2014-2016. Các nhà khai thác dầu mỏ Nga đã rất kinh ngạc khi phát hiện ra rằng sự bất ổn kinh tế và khả năng phục hồi của các dự án đá phiến, được báo chí Nga mô tả nhiều lần, không ngăn cản người Mỹ tăng sản lượng dầu.

Kể từ năm 2015, Mỹ đã vượt qua Nga về sản lượng và tốc độ khai thác dầu hàng năm.

Các cuộc tranh luận cho rằng mô hình tài chính của Mỹ trong sản xuất đá phiến là "không trung thực" và sẽ sớm sụp đổ đã nhanh chóng trở thành chủ đề được quan tâm ở Nga không chỉ trong giới chuyên gia mà còn cả những người dân bình thường.

Tất cả những điều này đã đưa quan hệ Nga-Mỹ trong lĩnh vực dầu khí lên một tầm cao mới của cuộc đối đầu cảm xúc, vốn đã nhấn chìm một lượng lớn dân số hơn nhiều so với tất cả các tranh chấp trước đây.

Vấn đề không chỉ nằm ở số lượng sản xuất ở Mỹ. Các nhà sản xuất ở đó không quan tâm đặc biệt đến số phận của toàn ngành, mà nhanh chóng tăng sản lượng, dẫn đến cung vượt cầu và giá giảm.

Sự sụp đổ của giá dầu và khí đốt trong giai đoạn 2015-2016 đã buộc Nga phải coi trọng nhiều hơn đối với cuộc cạnh tranh với ngành năng lượng Mỹ và xem xét lại phần lớn nội dung trong quan hệ với OPEC.

Lần đầu tiên, Nga chấp nhận hợp tác với các đối tác để ổn định thị trường, tức là nhằm giải quyết hậu quả của việc tăng trưởng không kiểm soát trong sản xuất.

[Nguyên nhân khiến Mỹ và Nga 'đụng độ' ở Đông Bắc Syria]

Các sự kiện của năm 2019-2020, khi chỉ với một vài dòng tweet, Tổng thống Trump đã buộc liên minh OPEC+ mở rộng, bao gồm cả Nga, nhiều lần phải đưa ra các quyết định có lợi cho Mỹ và tự nguyện giảm xuất khẩu, qua đó đã tạo thêm dư vị khó chịu cho mối quan hệ giữa Moskva và Washington.

Vì vậy, trong chiến dịch bầu cử hiện tại, quan hệ giữa Nga và Mỹ đã ở trong tình trạng khá tồi tệ.

Khó khăn ngay lập tức và hậu quả sau đó

Các ứng cử viên đảng Cộng hòa và Dân chủ có quan điểm hoàn toàn trái ngược về sự phát triển của ngành năng lượng, nhưng có vẻ như cả hai lựa chọn sẽ không mấy thoải mái đối với Nga, đơn giản vì những lý do khác nhau.

Ông Donald Trump hứa hẹn giảm thuế và hỗ trợ các ngành công nghiệp nặng truyền thống (luyện kim, cơ khí, than và dầu khí).

Việc rút Mỹ khỏi Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, cũng như các lệnh trừng phạt đối với dầu mỏ của Iran và Venezuela và đường ống dẫn khí Nord Stream 2, kết hợp với những phát biểu gây sức ép lên OPEC+, có thể được coi là thúc đẩy lợi ích của ngành dầu khí Mỹ.

Vì vậy, sự ủng hộ của ông Trump đối với công nhân dầu mỏ của Mỹ và việc tăng sản lượng dầu gần 4 triệu thùng/ngày đã dẫn đến sự mất mát đáng kể về doanh thu dầu khí đối với Nga.

Nếu ông Trump ở lại nhiệm kỳ thứ hai, ông hứa sẽ duy trì sự ủng hộ đối với năng lượng truyền thống (than, dầu, khí đốt – tất cả đều cạnh tranh với hàng xuất khẩu của Nga), và các quy định đặc biệt mềm đối với lĩnh vực dầu khí. Những điều này khó có thể làm hài lòng các nhà sản xuất Nga.

Ứng cử viên đảng Dân chủ Joe Biden có quan điểm ngược lại với triển vọng năng lượng của Mỹ và ủng hộ việc quay trở lại Hiệp định Paris và Thỏa thuận xanh với sự chuyển đổi dần dần từ dầu mỏ sang năng lượng tái tạo.

Các kế hoạch của ông nhằm làm cho ngành năng lượng Mỹ không carbon vào năm 2035 và đạt được sự trung lập hoàn toàn về khí hậu vào năm 2050, khiến nhiều người nhớ đến chính sách khí hậu của châu Âu, vốn đã khá căng thẳng đối với nền kinh tế Nga.

Ông Biden hứa hẹn sẽ đầu tư 2.000 tỷ USD trong vòng 4 năm tới để chuyển đổi năng lượng của Mỹ sang các nguồn sạch (bao gồm cơ sở hạ tầng sạch và "ô tô mới, sạch, do Mỹ sản xuất").

Ông cũng có kế hoạch thắt chặt thuế và quy định môi trường đối với ngành dầu khí (hủy bỏ trợ cấp liên bang, hạn chế cấp giấy phép mới, hủy bỏ việc xây dựng các đường ống mới).

Đầu tư vào các công nghệ năng lượng carbon thấp, vốn đã bị chính quyền của ông Trump cắt giảm đáng kể, sẽ tăng lên, và việc làm mới sẽ được tạo ra trong năng lượng xanh.

Đối với các nhà khai thác dầu mỏ Nga, một hành trình như vậy có thể có nghĩa là, một mặt, một phần dầu và khí đá phiến của Mỹ có thể rút khỏi thị trường.

Nhưng mặt khác, về lâu dài, sự đảo ngược màu xanh lá cây của Mỹ - một trong những nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới và là người đi đầu trong ngành công nghiệp ôtô chạy điện - chắc chắn sẽ dẫn đến sự chậm lại trong tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu, cũng như điều chỉnh chiến lược năng lượng của các quốc gia khác.

Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đã công bố loại bỏ khí carbon vào năm 2060. Và quyết định của các bên tham gia thị trường lớn nhất (Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) sẽ trở thành một yếu tố rất quan trọng đối với người tiêu dùng, nhà đầu tư và nhà sản xuất thiết bị.

Vì vậy, nếu ông Biden thắng, áp lực chương trình nghị sự khí hậu đối với Nga sẽ tăng lên, và trong vấn đề trừng phạt thì càng không nên mong đợi bất kỳ sự cứu trợ nào từ ông.

Tất nhiên, bên cạnh tác động trực tiếp của kết quả bầu cử tới quan hệ Nga-Mỹ, còn có một số tác động cấp hai rất lớn. Sự khác biệt trong cách tiếp cận của các ứng cử viên trong quan hệ với Iran, Saudi Arabia, Trung Quốc và EU chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tình hình thị trường năng lượng.

Nhưng nhìn chung, từ quan điểm của tổ hợp nhiên liệu và năng lượng Nga, các cuộc bầu cử ở Mỹ là một sự lựa chọn giữa tồi và tồi hơn.

Tất nhiên, câu hỏi được đặt ra là liệu mọi thứ có thực sự tồi tệ như vậy và liệu có thể tìm ra được một thỏa hiệp nào không? Từ quan điểm địa chính trị, cho đến nay vẫn chưa có cơ sở cho việc tái thiết lập, và lĩnh vực năng lượng ở đây là con tin của căng thẳng địa chính trị.

Tất nhiên, người ta có thể cố gắng nhìn từ một góc độ khác: Đa dạng hóa nền kinh tế Nga, làm cho nước này ít phụ thuộc hơn vào sự kết hợp của các thị trường bên ngoài (bao gồm bất kỳ quyết định nào của những bên tham gia lớn như Mỹ). Nhưng cũng không có quyết định như vậy trong chương trình nghị sự trong nước của Nga.

Do đó, rõ ràng là chúng ta sẽ phải chấp nhận và đứng nhìn các mối quan hệ trong lĩnh vực năng lượng ngày càng xấu đi như một thực tế mới và không thể tránh khỏi./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục