Nói về trọng tâm ngành y tế nhân dịp kỷ niệm Ngày thầy thuốc Việt Nam (27/2), Tiến sĩ Nguyễn Quốc Triệu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế, cho biết một trong những ưu tiên của ngành là chăm sóc sức khỏe người dân biển-đảo.
Theo Bộ trưởng, muốn làm được điều này, phải xây dựng và phát triển chuyên ngành y học và mạng lưới y tế biển quốc gia, tăng cường triển khai Đề án Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển giai đoạn 2009-2020 như là một chính sách đặc thù, cần thiết.
Việt Nam có hơn 3.260 km bờ biển chạy dài từ Bắc tới Nam và hàng nghìn hòn đảo, trong đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí đặc biệt quan trọng, thu hút sự quan tâm của cả nước.
Nhưng biển đảo lại là khu vực đặc biệt khó khăn, biệt lập với đất liền, dân cư thưa thớt, cuộc sống và sinh mạng người dân phải đối mặt với nhiều rủi ro.
Do đó, việc phát triển chuyên ngành y học biển và mạng lưới y tế biển đảo có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến đội ngũ lao động và tầng lớp nhân dân trên biển đảo- một lực lượng góp phần quan trọng vào việc phát triển nền kinh tế ( trên 50% GDP) và đảm bảo an ninh biên giới trên biển của tổ quốc.
Việt Nam hiện có 28 tỉnh, thành phố ven biển tập trung gần 30 triệu dân (1/3 dân số cả nước). Trong đó, có 8,3 triệu phụ nữ đang độ tuổi sinh đẻ. Dự báo đến 2015, dân số trong vùng sẽ là 34 triệu người. Tăng dân số bình quân hàng năm 1,6-1,7%; trong đó tăng do di dân 0,5-0,6%. Khu vực thành thị sẽ tăng lên 75% vào năm 2020. Nguồn lao động năm 2010 sẽ là 15,4 triệu; năm 2015 là 16,2 triệu; năm 2020 tăng đến 17 triệu.
Thời gian qua, các vấn đề kinh tế, xã hội vùng biển - đảo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm; đời sống người dân không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, do điều kiện địa lý, khí hậu, đặc thù nghề nghiệp (làm việc dài ngày trên biển) và tình trạng di dân (lao động đến làm việc tại các khu kinh tế biển) ngày càng tăng, lại thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, thảm hoạ, tình trạng xâm nhập mặn…, đời sống của cư dân biển - đảo vẫn còn nhiều khó khăn thách thức.
Đánh giá về công tác chăm sóc sức khỏe vùng biển-đảo thời gian qua, Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu cho rằng điều kiện được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, trong đó có dịch vụ chăm sóc y tế, sức khỏe bà mẹ, trẻ em, sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hóa gia đình còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình ở cấp xã còn thiếu và yếu, chưa phù hợp với đặc điểm môi trường, các bệnh đặc thù khí hậu, nghề nghiệp môi trường biển. Thậm chí một số xã ven biển còn chưa có Trạm y tế và nhiều Trạm y tế chưa có bác sỹ.
Trong khi hoạt động quản lý dân số-kế hoạch hóa gia đình cấp quốc gia, các cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu chưa phủ tới đầy đủ các huyện đảo nhất là các đảo ở xa đất liền. Do những yếu kém này, đất nước đã và đang phải đối mặt với thực tế: các chỉ số mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên của vùng biển-đảo cao hơn bình quân chung cả nước. Có tới 13/28 tỉnh, thành phố ven biển đang còn sinh cao trên mức thay thế. Áp lực sinh con trai còn nặng.
Bởi vậy, thời gian tới, theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu, ngành y tế sẽ tập trung triển khai xây dựng và phát triển mạng lưới y tế biển-đảo, phát triển chuyên ngành y học biển trên phạm vi cả nước phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng trên biển bao gồm các tuyến từ biển-đảo đến tuyến ven bờ, tuyến khu vực và tuyến trung ương.
Ngành y tế sẽ hoàn thiện và ban hành một số tiêu chuẩn về y tế cho các ngành kinh tế biển. Đồng thời, xây dựng một số chính sách về y tế biển-đảo nhằm thu hút các cán bộ y tế tham gia phục vụ sức khoẻ cho các lao động và nhân dân trên biển, đảo. Trước mắt, Bộ Y tế cần ban hành một văn bản pháp lý về xây dựng và phát triển y tế biển, tiến tới đề nghị Chính phủ ban hành chính sách quốc gia về y tế biển, xây dựng một chiến lược toàn diện từ 2010- 2020 nhằm phát triển chuyên ngành y học biển nói riêng và mạng lưới y tế biển nói chung.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu, từ nay đến năm 2020, ngành sẽ đẩy nhanh việc đào tạo đội ngũ nhân lực y tế biển có trình độ chuyên sâu; đầu tư xây dựng Viện Y học biển Việt Nam và khoa Y học biển – Trường đại học Y Hải Phòng thành Viện và chuyên khoa đầu ngành với trang thiết bị đồng bộ, hiện đại. Đồng thời tiếp tục điều tra khảo sát tình hình, môi trường, sức khỏe, cơ cấu bệnh tật của lao động trong các ngành kinh tế biển; sớm xây dựng và ban hành tiêu chuẩn về sức khỏe lao động biển./.
Theo Bộ trưởng, muốn làm được điều này, phải xây dựng và phát triển chuyên ngành y học và mạng lưới y tế biển quốc gia, tăng cường triển khai Đề án Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển giai đoạn 2009-2020 như là một chính sách đặc thù, cần thiết.
Việt Nam có hơn 3.260 km bờ biển chạy dài từ Bắc tới Nam và hàng nghìn hòn đảo, trong đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí đặc biệt quan trọng, thu hút sự quan tâm của cả nước.
Nhưng biển đảo lại là khu vực đặc biệt khó khăn, biệt lập với đất liền, dân cư thưa thớt, cuộc sống và sinh mạng người dân phải đối mặt với nhiều rủi ro.
Do đó, việc phát triển chuyên ngành y học biển và mạng lưới y tế biển đảo có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến đội ngũ lao động và tầng lớp nhân dân trên biển đảo- một lực lượng góp phần quan trọng vào việc phát triển nền kinh tế ( trên 50% GDP) và đảm bảo an ninh biên giới trên biển của tổ quốc.
Việt Nam hiện có 28 tỉnh, thành phố ven biển tập trung gần 30 triệu dân (1/3 dân số cả nước). Trong đó, có 8,3 triệu phụ nữ đang độ tuổi sinh đẻ. Dự báo đến 2015, dân số trong vùng sẽ là 34 triệu người. Tăng dân số bình quân hàng năm 1,6-1,7%; trong đó tăng do di dân 0,5-0,6%. Khu vực thành thị sẽ tăng lên 75% vào năm 2020. Nguồn lao động năm 2010 sẽ là 15,4 triệu; năm 2015 là 16,2 triệu; năm 2020 tăng đến 17 triệu.
Thời gian qua, các vấn đề kinh tế, xã hội vùng biển - đảo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm; đời sống người dân không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, do điều kiện địa lý, khí hậu, đặc thù nghề nghiệp (làm việc dài ngày trên biển) và tình trạng di dân (lao động đến làm việc tại các khu kinh tế biển) ngày càng tăng, lại thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, thảm hoạ, tình trạng xâm nhập mặn…, đời sống của cư dân biển - đảo vẫn còn nhiều khó khăn thách thức.
Đánh giá về công tác chăm sóc sức khỏe vùng biển-đảo thời gian qua, Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu cho rằng điều kiện được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, trong đó có dịch vụ chăm sóc y tế, sức khỏe bà mẹ, trẻ em, sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hóa gia đình còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình ở cấp xã còn thiếu và yếu, chưa phù hợp với đặc điểm môi trường, các bệnh đặc thù khí hậu, nghề nghiệp môi trường biển. Thậm chí một số xã ven biển còn chưa có Trạm y tế và nhiều Trạm y tế chưa có bác sỹ.
Trong khi hoạt động quản lý dân số-kế hoạch hóa gia đình cấp quốc gia, các cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu chưa phủ tới đầy đủ các huyện đảo nhất là các đảo ở xa đất liền. Do những yếu kém này, đất nước đã và đang phải đối mặt với thực tế: các chỉ số mức sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên của vùng biển-đảo cao hơn bình quân chung cả nước. Có tới 13/28 tỉnh, thành phố ven biển đang còn sinh cao trên mức thay thế. Áp lực sinh con trai còn nặng.
Bởi vậy, thời gian tới, theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu, ngành y tế sẽ tập trung triển khai xây dựng và phát triển mạng lưới y tế biển-đảo, phát triển chuyên ngành y học biển trên phạm vi cả nước phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng trên biển bao gồm các tuyến từ biển-đảo đến tuyến ven bờ, tuyến khu vực và tuyến trung ương.
Ngành y tế sẽ hoàn thiện và ban hành một số tiêu chuẩn về y tế cho các ngành kinh tế biển. Đồng thời, xây dựng một số chính sách về y tế biển-đảo nhằm thu hút các cán bộ y tế tham gia phục vụ sức khoẻ cho các lao động và nhân dân trên biển, đảo. Trước mắt, Bộ Y tế cần ban hành một văn bản pháp lý về xây dựng và phát triển y tế biển, tiến tới đề nghị Chính phủ ban hành chính sách quốc gia về y tế biển, xây dựng một chiến lược toàn diện từ 2010- 2020 nhằm phát triển chuyên ngành y học biển nói riêng và mạng lưới y tế biển nói chung.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu, từ nay đến năm 2020, ngành sẽ đẩy nhanh việc đào tạo đội ngũ nhân lực y tế biển có trình độ chuyên sâu; đầu tư xây dựng Viện Y học biển Việt Nam và khoa Y học biển – Trường đại học Y Hải Phòng thành Viện và chuyên khoa đầu ngành với trang thiết bị đồng bộ, hiện đại. Đồng thời tiếp tục điều tra khảo sát tình hình, môi trường, sức khỏe, cơ cấu bệnh tật của lao động trong các ngành kinh tế biển; sớm xây dựng và ban hành tiêu chuẩn về sức khỏe lao động biển./.
Nhật Minh (Vietnam+)