Các nhà khoa học thế giới 'hiến kế' để phát triển ngành bán dẫn Việt Nam

Các nhà khoa học hàng đầu thế giới cho rằng Việt Nam muốn phát triển và gia nhập vào cuộc đua công nghệ bán dẫn toàn cầu cần đầu tư nhân lực chất lượng cao và thu hút đầu tư của nước ngoài.

Tọa đàm "Công nghệ bán dẫn nền tảng của thế giới hiện đại." (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)
Tọa đàm "Công nghệ bán dẫn nền tảng của thế giới hiện đại." (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Sáng 18/12, trong khuôn khổ Tuần lễ khoa học công nghệ và Lễ trao giải VinFuture 2023, nhiều giáo sư, nhà khoa học nổi tiếng thế giới đã có mặt tại Việt Nam tham gia Tọa đàm "Công nghệ bán dẫn nền tảng của thế giới hiện đại." Tại đây, các giáo sư, nhà khoa học đã bàn luận về tương lai của ngành công nghiệp bán dẫn đang bùng nổ trên toàn cầu và cơ hội với ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam.

Ngành bán dẫn là "huyết mạch" của nền Kinh tế Số

Theo Giáo sư Richard Henry Friend - Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng VinFuture, nguyên Giám đốc Trung tâm Maxwell thuộc Đại học Cambridge (Vương Quốc Anh) công nghệ bán dẫn là nền tảng của nhiều giải pháp công nghệ hiện nay. Ngành bán dẫn có vai trò chủ chốt, quan trọng và là tiêu điểm, có sự thu hút nhiều ngành công nghiệp trên thế giới.

sonr5401-1629.jpg
Giáo sư Richard Henry Friend - Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng VinFuture. (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Giáo sư Friend chia sẻ tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế đều được vận hành dựa trên những con chip nhỏ - từ điện toán, viễn thông, ngân hàng, bảo mật, chăm sóc sức khỏe, thiết bị gia dụng đến vận tải (đặc biệt là xe điện), sản xuất, giải trí và nhiều lĩnh vực khác. Các tiến bộ trong lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), Dữ liệu lớn (BigData), viễn thông 5G, siêu máy tính và xe tự lái… đều dựa vào sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của ngành công nghiệp bán dẫn.

Giáo sư Richard Henry Friend cũng cho biết là “huyết mạch” của nền Kinh tế Số, ngành bán dẫn được dự báo có thể mang lại doanh thu hơn 620 tỷ USD vào năm 2024 và tăng mạnh lên 1.000 tỷ USD vào năm 2030. Ngành này cũng được xem là phần cốt lõi trong cuộc cạnh tranh công nghệ giữa các cường quốc trong thế kỷ 21.

vnp-vunfuture-2023-3-112.jpg
Tiến sĩ Sadasivan Shankar (Quản lý Nghiên cứu - Phát triển Công nghệ tại Phòng thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia SLAC, Đại học Stanford, Hoa Kỳ). (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Tại tọa đàm, các chuyên gia cũng thảo luận về định hướng dành cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, giúp xây dựng chiến lược phù hợp để phát triển các ngành công nghiệp bán dẫn trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Theo Tiến sỹ Sadasivan Shankar - Quản lý Nghiên cứu - Phát triển Công nghệ tại Phòng thí nghiệm Máy gia tốc Quốc gia SLAC, Đại học Stanford (Hoa Kỳ), trong công nghiệp bán dẫn, giai đoạn đóng gói đang ngày càng trở nên phức tạp. Ông Sadasivan Shankar đánh giá Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng đáng kể và thời điểm hiện tại là cơ hội để Việt Nam có thể nắm bắt các đổi mới sáng tạo trong mảng đóng gói chip.

"Một số công nghệ đóng gói chip tiên tiến của Intel đã được thực hiện tại Việt Nam trước đây. Quốc gia của các bạn với nguồn cung cấp năng lượng, lực lượng lao động dồi dào, trình độ cao và năng lực thu hút đầu tư mạnh mẽ, sẽ là một ứng cử viên triển vọng cho ngành công nghiệp bán dẫn."

Chính phủ và doanh nghiệp cần "bắt tay"

Chia sẻ kinh nghiệm phát triển ngành bán dẫn tại Singapore, Giáo sư Teck-Seng Low - Phó Chủ tịch cấp cao tại Đại học Quốc gia Singapore (NUS) cho hay ngành bán dẫn đóng góp 9% GDP quốc gia của Singapore với nhiều nhà máy sản xuất và đơn vị thiết kế lớn tập trung tại quốc đảo này. Đây là kết quả của một chiến lược phát triển ngành bán dẫn ở Singapore trong hàng chục năm qua.

"Khi bắt đầu phát triển công nghiệp bán dẫn và điện tử, Singapore đã đi học hỏi, sau đó sao chép mô hình của Đài Loan," ông Teck-Seng Low cho biết.

vnp-vunfuture-2023-4-3450.jpg
Giáo sư Teck-Seng Low - Phó Chủ tịch cấp cao tại Đại học Quốc gia Singapore (NUS). (Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

"Ở Singapore có hàng chục triệu USD đầu tư vào ngành bán dẫn và các nước hoàn toàn có thể khởi động với chi phí hợp lý ban đầu thông qua với hợp tác với doanh nghiệp hoặc mô hình khởi nghiệp vi mô. Để phát triển ngành này, tôi nghĩ cần phải thu hút nhà đầu tư nước ngoài và hai là phát triển công ty bán dẫn trong nước. Phải kết hợp sức mạnh nội tại và nhà đầu tư nước ngoài," Giáo sư Teck-Seng Low nói.

Ông Teck-Seng Low cũng chia sẻ ngành bán dẫn đang tạo ra nhiều cơ hội mới. Vì vậy, Singapore tiếp tục đầu tư mạnh mẽ vào ngành này. Cụ thể, quốc gia này đầu tư 150 triệu USD vào trung tâm nghiên cứu xuất sắc nhằm tìm ra vật liệu mới, 350 triệu USD vào điện toán lượng tử và điện toán quang tử.

Ông cũng cho rằng tương lai của ngành Công nghiệp Vi Điện tử và bán dẫn tại Singapore phụ thuộc vào việc phát triển một hệ sinh thái nghiên cứu cạnh tranh toàn cầu giữa các tổ chức công và tư, thu hút, phát triển và giữ chân các đội ngũ nhân sự chất lượng cao, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu công tư và tạo ra các kết quả nghiên cứu xuất sắc.

Từ bài học của Singapore, Giáo sư Teck-Seng Low cho rằng để phát triển ngành bán dẫn, Việt Nam nên tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, thúc đẩy ngành bán dẫn trong nước bằng việc thu hút, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại.

Theo Giáo sư Teck-Seng Low, Việt Nam có thể bắt đầu bán dẫn bằng những phòng nghiên cứu hàng triệu USD. Tuy nhiên, Chính phủ có thể kết hợp với các doanh nghiệp để chia sẻ gánh nặng tài chính. Đặc biệt, các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có thể mang lại nhiều triển vọng.

vnp-vunfuture-2023-6-4004.jpg
(Ảnh: Minh Sơn/Vietnam+)

Trước câu hỏi Việt Nam cần làm gì để phát triển ngành này, Giáo sư Nguyễn Thục Quyên - Đồng Chủ tịch Hội đồng Sơ khảo Giải thưởng VinFuture, Giám đốc Trung tâm Polyme và Chất rắn Hữu cơ (CPOS) cho rằng Việt Nam đang thiếu nguồn nhân lực cao về ngành bán dẫn, chính vì vậy các trường đại học cần đào tạo ra nguồn nhân lực cao cho bán dẫn, đào tạo các em vừa học, vừa thực hành tại doanh nghiệp.

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Sadasivan Shankar tin rằng những quốc gia đang phát triển như Việt Nam có thể thiết lập các chương trình hoặc các phương án tài trợ để thúc đẩy giáo dục./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục