Giải cứu ngành ôtô Mỹ - Cuộc chơi nhiều rủi ro

Quyết định cứu ngành công nghiệp ôtô của Nhà Trắng dường như làm dấy lên một làn sóng cứu trợ ngành công nghiệp ôtô trên toàn thế giới. Trong khi nhiều người đồng tình với động thái trên của Chính phủ Mỹ, coi đó như một hành động kịp thời đối với các nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, không ít người đặt ra câu hỏi: Liệu đây là một hành động thực sự cần thiết hay sẽ làm tình hình trở nên tồi tệ hơn?

Quyết định cứu ngành công nghiệp ôtô của Nhà Trắng dường như làm dấy lên một làn sóng cứu trợ ngành công nghiệp ôtô trên toàn thế giới. Trong khi nhiều người đồng tình với động thái trên của Chính phủ Mỹ, coi đó như một hành động kịp thời đối với các nạn nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, không ít người đặt ra câu hỏi: Liệu đây là một hành động thực sự cần thiết hay sẽ làm tình hình trở nên tồi tệ hơn?

Làn sóng cứu trợ


Chỉ một ngày sau khi cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush thông báo khoản vay khẩn cấp 17,4 tỷ USD cho 3 đại gia ôtô nước này là General Motors (GM), Ford và Chrysler, Chính phủ Canađa đã quyết định chi 3,3 tỷ USD để hỗ trợ các nhà sản xuất ôtô trong nước đang trong quá trình tái cơ cấu.

Bên kia bờ Đại Tây Dương, chính phủ nhiều nước cũng theo dõi sát sao hành động của Mỹ. Các nhà sản xuất ôtô đang tìm kiếm khoản vay 40 tỷ euro (52 tỷ USD) từ Ngân hàng Đầu tư châu Âu, dưới hình thức hỗ trợ cho việc sản xuất các loại xe thân thiện hơn với môi trường. Đầu tháng 12/2008, Chính phủ Pháp đã thông qua gói cứu trợ 1,5 tỷ euro (2 tỷ USD) để vực dậy ngành công nghiệp ôtô của họ.

Tại Đức, Thủ tướng Angela Merkel nói rằng chính phủ của bà sẽ sớm thông qua khoản vay bảo lãnh mà đại diện ở châu Âu của GM đề nghị. Chính phủ Anh đã họp bàn với tập đoàn Tata, phụ trách chi nhánh Ấn Độ của Jaguar Land Rover, về gói cứu trợ lên tới 1 tỷ bảng Anh (1,5 tỷ USD). Thụy Điển, nơi đặt chi nhánh Volvo của hãng Ford và Saab của GM, cũng thông báo sẽ chi 3,6 tỷ USD, nhằm ngăn chặn nguy cơ sụp đổ của ngành công nghiệp ôtô.

Bên cạnh việc sử dụng quỹ công, nhiều biện pháp khác cũng đã được đưa ra. Chẳng hạn, Chính phủ Nhật Bản đã hạ giá đồng yên, nhằm làm giảm bớt chi phí của các nhà sản xuất. Trong một nỗ lực tương tự, Hàn Quốc giảm 1/3 thuế tiêu thụ ôtô, Nga tăng thuế nhập khẩu và yêu cầu các công ty nhà nước tạm dừng việc mua ôtô nước ngoài.

Thời kỳ khó khăn

Năm 2008 là một năm đầy khó khăn đối với các nhà sản xuất ôtô trên toàn thế giới. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính lan rộng, ngành công nghiệp ôtô bắt đầu gặp khó khăn khi khủng hoảng tín dụng bùng nổ, khiến người tiêu dùng không thể tiếp cận các khoản vay mua ôtô, trong khi các nhà sản xuất đối mặt với tình trạng thiếu tiền mặt để tiếp tục hoạt động. Trong hoàn cảnh đó, chi tiêu tiêu dùng bị thắt chặt, đặc biệt là các khoản mua sắm tốn kém như mua ôtô bị hạn chế.

Theo Cơ quan dự báo kinh tế IHS Global Insight, trong quý IV/2008, doanh số bán ôtô tiếp tục giảm, khi sản lượng toàn cầu giảm 16%. Thậm chí, hãng Toyota hàng đầu Nhật Bản có thể sẽ bị thua lỗ hoạt động lần đầu tiên trong 70 năm qua trong tài khóa 2008. Trong khi đó, kinh tế toàn cầu vẫn chưa có dấu hiệu hồi phục và tình hình có thể còn tồi tệ hơn trong năm tới.

Do đó, việc 3 đại gia ôtô Mỹ kêu cứu đã gây hoang mang không chỉ ở Detroit. Sự sụp đổ của 3 đại gia này có thể gây ra những tác động sâu rộng. Ở Mỹ, GDP có thể giảm 1% và 1,1 triệu người sẽ bị mất việc làm khiến chính phủ phải bổ sung thêm 13 tỷ USD để chi trả trợ cấp thất nghiệp cho họ.

Nước láng giềng Canada ở phía bắc cũng sẽ phải cắt giảm 600.000 việc làm và 80% sản lượng trong ngành công nghiệp phụ tùng ôtô. Tại Đức, nơi cứ 5 người thì có 1 người làm việc trong ngành công nghiệp ôtô, hàng triệu việc làm có nguy cơ bị cắt giảm. Thậm chí, các đối thủ Nhật Bản của các đại gia ôtô Mỹ cũng không tránh khỏi điều đó.

Theo nhà chiến lược Heino Ruland ở Frankfurt Finanza (Đức): "Nếu một trong ba nhà sản xuất ôtô lớn nhất của Mỹ phá sản, toàn bộ dây chuyền cung cấp sẽ bị sụp đổ". Trong bối cảnh hiện nay, với những tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao nhất trong nhiều thập kỷ qua và niềm tin thị trường "chạm đáy", dường như không một chính phủ nước nào có đủ khả năng chịu đựng thêm một cú đánh nặng nề nữa vào nền kinh tế đã kiệt quệ. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi các quốc gia vội vã theo bước Mỹ, cứu nguy cho ngành công nghiệp ôtô trong nước.

Sự lựa chọn không dễ dàng

Trong lúc rất nhiều nhà sản xuất ôtô cần được cứu trợ, chính phủ các nước đang đứng trước một tình thế nan giải: nếu để ngành công nghiệp ôtô sụp đổ, suy thoái kinh tế có thể sẽ trầm trọng thêm, song việc bơm tiền mặt để cứu ngành công nghiệp này có thể chỉ là một sự lãng phí.

Nhiều người nghi ngờ việc ngành công nghiệp ôtô Mỹ có thể phục hồi vì cho rằng nó đã gặp những khó khăn lớn ngay cả trước khi nền kinh tế này rơi vào suy thoái. Chi phí nhân công tăng, mô hình kinh doanh không hiệu quả và sự sai lầm trong quản lý đã khiến các đại gia ôtô Mỹ ngày càng mất nhiều thị phần ở Bắc Mỹ hơn so với các đối thủ Nhật Bản.

Joseph Stiglitz, người đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001, nói rằng: "Điều cần thiết phải làm lúc này là giúp các nhà sản xuất ôtô có sự khởi động trở lại đầy sung sức và tạo điều kiện cho họ có thể tập trung vào việc sản xuất các loại xe chất lượng tốt. Ngành công nghiệp ôtô Mỹ sẽ không sụp đổ, song nó cần phải được tái cơ cấu".

Khi quyết định cứu trợ ngành công nghiệp ôtô, Chính phủ Mỹ đã đặt ra một tiền lệ cho việc sử dụng quỹ công để cứu một ngành công nghiệp đang bên bờ vực phá sản. Trong năm nay, khi tình hình tiếp tục tồi tệ, các lĩnh vực chế tạo khác hoặc các doanh nghiệp đang thua lỗ có thể sẽ yêu cầu một kế hoạch cứu trợ tương tự từ chính phủ.

Bên cạnh đó, khi Nhà Trắng phải trích một phần từ gói cứu trợ kinh tế 700 tỷ USD hiện nay để cứu 3 đại gia ôtô, sau khi Thượng viện bác bỏ kế hoạch cứu trợ ngành công nghiệp này đã khiến nhiều người lo lắng rằng, chính quyền các bang, các thành phố hay các công ty phi tài chính có thể cũng sẽ đòi hỏi quyền lợi từ 350 tỷ USD còn lại.

Quyết định trên cũng có thể làm dấy lên những lo ngại về sự cạnh tranh không lành mạnh và sự bảo hộ xuất khẩu, dẫn tới các vụ tranh chấp thương mại hoặc làm gia tăng chế độ bảo hộ nền công nghiệp trong nước. Tân Tổng thống Mỹ Barack Obama là người phải trả lời tất cả những vấn đề này./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục