Dăm bảy chục năm về trước, khi nghề nhiếp ảnh còn là môn nghệ thuật xa xỉ thì người dân nghèo thành thị cũng như nông thôn thường tìm đến các cửa hàng vẽ truyền thần thuê vẽ một bức chân dung viền khung gỗ với nhiều hoa văn cầu kỳ để treo nơi chính diện trong nhà, vừa đẹp, ưng ý, lại rẻ tiền. Nghề vẽ truyền thần vì thế rất phát triển.
Và người có công thổi hồn vào ảnh chân dung, làm sống lại các di ảnh, mê hoặc khách trong và ngoài nước là nghệ sĩ Nguyễn Bảo Nguyên, người mà bà con khu phố Hàng Ngang tự hào tặng cho ông danh hiệu “Người nghệ sĩ vẽ truyền thần giữa lòng phố cổ Hà Nội”.
"Nghề chọn tôi"
Hàng Ngang là con phố cổ nằm ở trung tâm Hà Nội "36 phố phường" xưa, bán buôn sầm uất, với những cửa hàng văn minh thương mại hoành tráng chuyên đồ hàng hiệu đắt tiền như quần áo, vải, đồng hồ, giầy dép cao cấp, mỹ phẩm, đồ cổ.
Ở giữa phố, tại số nhà 47 vẫn còn đó duy nhất cửa hàng vẽ tranh “Truyền thần Bảo Nguyên” lặng lẽ, khiêm nhường, chỉ rộng khoảng 10m2, quanh tường treo đầy tranh khách đã “đặt hàng” hẹn ngày đến lấy. Tới đây, khách yêu tranh thỏa sức cảm nhận giá trị nghệ thuật, nội tâm nhân vật từ nếp nhăn trên gò má, ánh mắt trong trẻo của bé thơ, gương mặt cương trực của anh bộ đội cụ Hồ, nụ cười sảng khoái trên khóe miệng người phụ nữ vùng cao địu con lên nương, hoặc chân dung của một ông Tây đôi mắt xanh nhìn về một nơi xa thẳm.
Góc tường, trên cao là ảnh Alain, Audrey Mone được phóng tác với nét tài tử, kiều diễm, sáng giá. Ấn tượng nhất bức chân dung Tề Bạch Thạch, ông vẽ trong mấy tháng trời mới hoàn thành. Tề lão gia chống chiếc gậy trúc, đôi mắt sáng, thể hiện cốt cách của một nghệ sĩ tài hoa…
Ông chủ Bảo Nguyên mái đầu hói, chỉ còn lại ít tóc trắng phơ sau gáy, cũng đã thuộc lớp người “xưa nay hiếm” đang ngồi trước bức tranh “Thiếu nữ Hà Nội," ông vẽ dang dở. Đôi mắt ông nheo nheo sau cặp kính lão, chừng như có nét gì trong tranh làm ông chưa ưng ý? Ông mời tôi cùng ngồi xem tranh, rồi “à” lên, “đây rồi, chiếc áo dài, cổ cách tân hơi thấp, tà áo ngắn, các cụ ta thường bảo quần chùng áo dài kia mà."
Ông tạm gác công việc, pha trà mời tôi. Cách pha trà của ông chậm rãi, tao nhã của người biết thưởng thức văn hóa uống trà. Ông tâm sự, con đường vào nghề của ông rất tình cờ, hình như là nghề chọn ông. Năm 1960, khi đang là sinh viên khoa Lý, trường Đại học Tổng hợp, không may ông bị một trận ốm thập tử nhất sinh, sự học đành dang dở.
Một lần tình cờ, ông thả bộ dạo chơi phố Hàng Đào, thấy người ta vẽ truyền thần, ông thích thú đứng xem. Ông đâm mê, ngày nào cũng đến cửa hiệu quen thuộc, đứng nép mình bên cửa học lỏm. Về nhà ông tập vẽ, đầu tiên ký họa những người thân quen, cha mẹ, anh em, bạn bè. Được mọi người khen, động viên “vẽ rất giống," ông vững tin bước vào nghề.
Ông mở một cửa hàng nho nhỏ cạnh rạp chiếu phim Tháng Tám. Sau đó khi cửa hàng ra nhập vào hợp tác xã truyền thần, ông “có đất dụng võ." Do kiên trì tự học, nghề không phụ, ông trở thành một thợ cả có uy tín.
Mọi người gọi ông là “họa sĩ." Ông bảo ông không qua trường lớp nào cả, cũng đừng gọi ông là “nghệ nhân," vì ông không phải hội viên một Hội nghề nghiệp. Ông làm nghề tự do, “xin mọi người cứ gọi tôi là thợ vẽ”.
Với nhiều lý do chủ quan và khách quan, hợp tác xã truyền thần của ông “chuyển đổi mục đích” sang một nghề khác. Ông Bảo Nguyên không buông xuôi, không đánh đắm lòng đam mê của mình, ông tự xoay vốn, mở cửa hàng tại 47 phố Hàng Ngang, cần mẫn vẽ.
Tiếng lành đồn xa, dần dần rồi ông cũng có khách hàng riêng của mình, ngày càng đông. Có người đến yêu cầu ông vẽ lại bức ảnh cũ của người đã mất, hoặc ảnh các cụ gần đất xa trời để có ảnh mà thờ. Nhiều người bỏ quan niệm vẽ truyền thần khi còn trẻ, đem cả ảnh cưới, ảnh con cái đến thuê ông vẽ về treo tường, coi như một thú chơi. Rất đông khách nước ngoài yêu mến nét văn hóa được coi như “đặc sản” Việt Nam “đặt hàng” ông. Có cả các quan khách như Hoàng gia Thái Lan, Phu nhân Đại sứ Mỹ, Lào tìm đến ông, đặt vẽ chân dung.
Cốt là ở cái “thần”
Công việc vẽ truyền thần, theo ông Bảo Nguyên, không phải chỉ đơn thuần là “chép ảnh". “Truyền thần” là một từ gốc Hán-Việt, có nghĩa là truyền lại cái “thần” của người được vẽ. Ông Bảo Nguyên đã có kinh nghiệm 45 năm vẽ tranh truyền thần, trước sau ông chỉ có một quan điểm, khi vẽ phải nắm được cái “thần” của đối tượng.
Theo ông, bức ảnh vẽ giống thôi chưa đủ, mà phải có thần thái, dù nhân vật trong tranh là người, phong cảnh hay tĩnh vật. Cái thần đó thể hiện nơi khóe mắt, nếp nhăn trên trán, hay vài sợi tóc vương trên mặt, chiếc mũi hếch, chiếc răng duyên… Người vẽ phải nhận ra, tự tìm thấy, không ai có thể dạy được. Có những bức tranh ông vẽ đi, vẽ lại tới năm sáu lần mới phát hiện ra chỗ thiếu, bởi “nhìn mãi vẫn không thấy người trong tranh nói chuyện được với mình."
Ông có một kỷ niệm không bao giờ quên, đó là khi Giám đốc Trung tâm văn hóa Đông Tây, cháu đích tôn chín đời của dòng họ Vũ Tông Phan (1800-1851) - danh nhân văn hóa của dân tộc, đặt ông vẽ chân dung cụ Vũ, kịp phục vụ kỷ niệm 200 năm ngày sinh ông Tổ của mình. Nhưng không có ảnh mẫu. Người nhà chỉ đưa cho ông mấy dòng tiểu sử, mấy bài thơ của cụ Phan để ông tưởng tượng mà vẽ ra. Quả là không đơn giản.
Nghiền ngẫm tư liệu suốt hơn một tuần lễ, ông vẫn chưa tìm thấy "đáp số." Ông đề nghị người nhà kể về cụ Tổ của mình. “Cuộc nói chuyện không gò bó, tôi lắng nghe, và hình hài cụ Phan cứ hiện dần ra. Sau cuộc nói chuyện lần thứ hai, khi người khách vừa đi khỏi thì 'thần' của Vũ Tông Phan hiện về, cứ như có một con người thật ngồi bên giá vẽ làm mẫu. Tôi cầm bút phác thảo những nét chính, rồi treo vào một chỗ kín đáo. Con cháu cụ Vũ Tông Phan đến xem, thốt lên “Tôi chưa từng thấy mặt cụ Tổ, nhưng thần thái người trong ảnh giống thần thái dòng họ Vũ Tông nhà tôi." Lúc đó tôi như muốn khóc òa lên vì biết mình đã thành công,” ông Bảo Nguyên kể.
Có lần ông nhận vẽ lại bức tranh của nhà văn Lan Khai, theo yêu cầu của con trai nhà văn, ông Nguyễn Lan Phương, lặn lội từ Hà Giang xuống nhờ ông vẽ. Bức ảnh từ đầu thế kỷ 20 đã ố vàng, đường nét lu mờ. Ông yêu văn của nhà văn tiền chiến, ông nhận lời. Hẹn… hai năm mới hoàn thành. Trong hai năm đó, ông đọc, nhớ lại giọng văn của Lan Khai. Mỗi ngày ông vẽ một ít, cứ thế cho tới lúc hoàn thành bức tranh. Khi nhận ảnh, ông Lan Phương sững sờ, không tin nổi vào mắt mình, bởi người trong tranh chính là cha ông, nhà văn Lan Khai - Nguyễn Đình Khải.
Ngày nay, trên thị trường bán sẵn những hộp mực ngoại tiện dùng cho người vẽ tranh. Nhưng theo ông Bảo Nguyên, chất lượng không bằng cách pha thủ công, thuộc bí quyết nhà nghề, ông mầy mò tạo riêng cho mình.
Ông kể: “Truyền thần chỉ có hai màu đen, trắng. Màu trắng sử dụng ngay màu của giấy, màu đen thì đốt cao su, lốp xe, ngọn đèn dầu hỏa khều cao bấc, khói càng nhiều càng tốt. Dùng chiếc phễu hứng lên ngọn lửa lấy muội than. Thứ muội đó dùng làm mực vừa mịn lại bền màu, phơn phớt vàng nâu vẽ trên nền giấy trắng rất 'ăn', không đen nhánh như mực công nghiệp.
Bút vẽ thì khác người ở chỗ dùng những chiếc đũa tre dài ngắn khác nhau. Một đầu chẻ làm tư, gim những cái tăm hoặc chân hương được thít chặt bằng sợi dây đồng nhỏ, làm đầu bút. Đầu kia chẻ làm đôi, buộc một chiếc tẩy nhỏ hình tam giác, hoặc miếng bông rất êm để vẽ tranh có diện rộng."
Đơn sơ, mộc mạc, cây bút trong tay ông cứ như “cây bút thần", khi đậm, khi nhạt, có nét như gió thoảng, mềm mại, bay bổng “thổi hồn” vào những bức tranh.
Cả đời người chuyên tâm theo nghề, gian khổ, nhưng cũng đáng tự hào. Tranh của ông được mời tham gia triển lãm ở Nhật, Mỹ, Anh… Năm 2000, ông có tới 14 bức tranh tuyền thần được trưng bày tại một cuộc triển lãm lớn ở Nhật Bản. Thế giới biết đến tranh của ông.
Ở tuổi 75, ông còn một ước mơ đó là kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, nếu còn đủ sức cầm cây bút vẽ, ông sẽ đội khăn xếp đỏ, mặc áo đỏ, ngồi tại ngôi nhà 47 phố Hàng Ngang vẽ truyền thần phục vụ quý khách trong và ngoài nước./.
Và người có công thổi hồn vào ảnh chân dung, làm sống lại các di ảnh, mê hoặc khách trong và ngoài nước là nghệ sĩ Nguyễn Bảo Nguyên, người mà bà con khu phố Hàng Ngang tự hào tặng cho ông danh hiệu “Người nghệ sĩ vẽ truyền thần giữa lòng phố cổ Hà Nội”.
"Nghề chọn tôi"
Hàng Ngang là con phố cổ nằm ở trung tâm Hà Nội "36 phố phường" xưa, bán buôn sầm uất, với những cửa hàng văn minh thương mại hoành tráng chuyên đồ hàng hiệu đắt tiền như quần áo, vải, đồng hồ, giầy dép cao cấp, mỹ phẩm, đồ cổ.
Ở giữa phố, tại số nhà 47 vẫn còn đó duy nhất cửa hàng vẽ tranh “Truyền thần Bảo Nguyên” lặng lẽ, khiêm nhường, chỉ rộng khoảng 10m2, quanh tường treo đầy tranh khách đã “đặt hàng” hẹn ngày đến lấy. Tới đây, khách yêu tranh thỏa sức cảm nhận giá trị nghệ thuật, nội tâm nhân vật từ nếp nhăn trên gò má, ánh mắt trong trẻo của bé thơ, gương mặt cương trực của anh bộ đội cụ Hồ, nụ cười sảng khoái trên khóe miệng người phụ nữ vùng cao địu con lên nương, hoặc chân dung của một ông Tây đôi mắt xanh nhìn về một nơi xa thẳm.
Góc tường, trên cao là ảnh Alain, Audrey Mone được phóng tác với nét tài tử, kiều diễm, sáng giá. Ấn tượng nhất bức chân dung Tề Bạch Thạch, ông vẽ trong mấy tháng trời mới hoàn thành. Tề lão gia chống chiếc gậy trúc, đôi mắt sáng, thể hiện cốt cách của một nghệ sĩ tài hoa…
Ông chủ Bảo Nguyên mái đầu hói, chỉ còn lại ít tóc trắng phơ sau gáy, cũng đã thuộc lớp người “xưa nay hiếm” đang ngồi trước bức tranh “Thiếu nữ Hà Nội," ông vẽ dang dở. Đôi mắt ông nheo nheo sau cặp kính lão, chừng như có nét gì trong tranh làm ông chưa ưng ý? Ông mời tôi cùng ngồi xem tranh, rồi “à” lên, “đây rồi, chiếc áo dài, cổ cách tân hơi thấp, tà áo ngắn, các cụ ta thường bảo quần chùng áo dài kia mà."
Ông tạm gác công việc, pha trà mời tôi. Cách pha trà của ông chậm rãi, tao nhã của người biết thưởng thức văn hóa uống trà. Ông tâm sự, con đường vào nghề của ông rất tình cờ, hình như là nghề chọn ông. Năm 1960, khi đang là sinh viên khoa Lý, trường Đại học Tổng hợp, không may ông bị một trận ốm thập tử nhất sinh, sự học đành dang dở.
Một lần tình cờ, ông thả bộ dạo chơi phố Hàng Đào, thấy người ta vẽ truyền thần, ông thích thú đứng xem. Ông đâm mê, ngày nào cũng đến cửa hiệu quen thuộc, đứng nép mình bên cửa học lỏm. Về nhà ông tập vẽ, đầu tiên ký họa những người thân quen, cha mẹ, anh em, bạn bè. Được mọi người khen, động viên “vẽ rất giống," ông vững tin bước vào nghề.
Ông mở một cửa hàng nho nhỏ cạnh rạp chiếu phim Tháng Tám. Sau đó khi cửa hàng ra nhập vào hợp tác xã truyền thần, ông “có đất dụng võ." Do kiên trì tự học, nghề không phụ, ông trở thành một thợ cả có uy tín.
Mọi người gọi ông là “họa sĩ." Ông bảo ông không qua trường lớp nào cả, cũng đừng gọi ông là “nghệ nhân," vì ông không phải hội viên một Hội nghề nghiệp. Ông làm nghề tự do, “xin mọi người cứ gọi tôi là thợ vẽ”.
Với nhiều lý do chủ quan và khách quan, hợp tác xã truyền thần của ông “chuyển đổi mục đích” sang một nghề khác. Ông Bảo Nguyên không buông xuôi, không đánh đắm lòng đam mê của mình, ông tự xoay vốn, mở cửa hàng tại 47 phố Hàng Ngang, cần mẫn vẽ.
Tiếng lành đồn xa, dần dần rồi ông cũng có khách hàng riêng của mình, ngày càng đông. Có người đến yêu cầu ông vẽ lại bức ảnh cũ của người đã mất, hoặc ảnh các cụ gần đất xa trời để có ảnh mà thờ. Nhiều người bỏ quan niệm vẽ truyền thần khi còn trẻ, đem cả ảnh cưới, ảnh con cái đến thuê ông vẽ về treo tường, coi như một thú chơi. Rất đông khách nước ngoài yêu mến nét văn hóa được coi như “đặc sản” Việt Nam “đặt hàng” ông. Có cả các quan khách như Hoàng gia Thái Lan, Phu nhân Đại sứ Mỹ, Lào tìm đến ông, đặt vẽ chân dung.
Cốt là ở cái “thần”
Công việc vẽ truyền thần, theo ông Bảo Nguyên, không phải chỉ đơn thuần là “chép ảnh". “Truyền thần” là một từ gốc Hán-Việt, có nghĩa là truyền lại cái “thần” của người được vẽ. Ông Bảo Nguyên đã có kinh nghiệm 45 năm vẽ tranh truyền thần, trước sau ông chỉ có một quan điểm, khi vẽ phải nắm được cái “thần” của đối tượng.
Theo ông, bức ảnh vẽ giống thôi chưa đủ, mà phải có thần thái, dù nhân vật trong tranh là người, phong cảnh hay tĩnh vật. Cái thần đó thể hiện nơi khóe mắt, nếp nhăn trên trán, hay vài sợi tóc vương trên mặt, chiếc mũi hếch, chiếc răng duyên… Người vẽ phải nhận ra, tự tìm thấy, không ai có thể dạy được. Có những bức tranh ông vẽ đi, vẽ lại tới năm sáu lần mới phát hiện ra chỗ thiếu, bởi “nhìn mãi vẫn không thấy người trong tranh nói chuyện được với mình."
Ông có một kỷ niệm không bao giờ quên, đó là khi Giám đốc Trung tâm văn hóa Đông Tây, cháu đích tôn chín đời của dòng họ Vũ Tông Phan (1800-1851) - danh nhân văn hóa của dân tộc, đặt ông vẽ chân dung cụ Vũ, kịp phục vụ kỷ niệm 200 năm ngày sinh ông Tổ của mình. Nhưng không có ảnh mẫu. Người nhà chỉ đưa cho ông mấy dòng tiểu sử, mấy bài thơ của cụ Phan để ông tưởng tượng mà vẽ ra. Quả là không đơn giản.
Nghiền ngẫm tư liệu suốt hơn một tuần lễ, ông vẫn chưa tìm thấy "đáp số." Ông đề nghị người nhà kể về cụ Tổ của mình. “Cuộc nói chuyện không gò bó, tôi lắng nghe, và hình hài cụ Phan cứ hiện dần ra. Sau cuộc nói chuyện lần thứ hai, khi người khách vừa đi khỏi thì 'thần' của Vũ Tông Phan hiện về, cứ như có một con người thật ngồi bên giá vẽ làm mẫu. Tôi cầm bút phác thảo những nét chính, rồi treo vào một chỗ kín đáo. Con cháu cụ Vũ Tông Phan đến xem, thốt lên “Tôi chưa từng thấy mặt cụ Tổ, nhưng thần thái người trong ảnh giống thần thái dòng họ Vũ Tông nhà tôi." Lúc đó tôi như muốn khóc òa lên vì biết mình đã thành công,” ông Bảo Nguyên kể.
Có lần ông nhận vẽ lại bức tranh của nhà văn Lan Khai, theo yêu cầu của con trai nhà văn, ông Nguyễn Lan Phương, lặn lội từ Hà Giang xuống nhờ ông vẽ. Bức ảnh từ đầu thế kỷ 20 đã ố vàng, đường nét lu mờ. Ông yêu văn của nhà văn tiền chiến, ông nhận lời. Hẹn… hai năm mới hoàn thành. Trong hai năm đó, ông đọc, nhớ lại giọng văn của Lan Khai. Mỗi ngày ông vẽ một ít, cứ thế cho tới lúc hoàn thành bức tranh. Khi nhận ảnh, ông Lan Phương sững sờ, không tin nổi vào mắt mình, bởi người trong tranh chính là cha ông, nhà văn Lan Khai - Nguyễn Đình Khải.
Ngày nay, trên thị trường bán sẵn những hộp mực ngoại tiện dùng cho người vẽ tranh. Nhưng theo ông Bảo Nguyên, chất lượng không bằng cách pha thủ công, thuộc bí quyết nhà nghề, ông mầy mò tạo riêng cho mình.
Ông kể: “Truyền thần chỉ có hai màu đen, trắng. Màu trắng sử dụng ngay màu của giấy, màu đen thì đốt cao su, lốp xe, ngọn đèn dầu hỏa khều cao bấc, khói càng nhiều càng tốt. Dùng chiếc phễu hứng lên ngọn lửa lấy muội than. Thứ muội đó dùng làm mực vừa mịn lại bền màu, phơn phớt vàng nâu vẽ trên nền giấy trắng rất 'ăn', không đen nhánh như mực công nghiệp.
Bút vẽ thì khác người ở chỗ dùng những chiếc đũa tre dài ngắn khác nhau. Một đầu chẻ làm tư, gim những cái tăm hoặc chân hương được thít chặt bằng sợi dây đồng nhỏ, làm đầu bút. Đầu kia chẻ làm đôi, buộc một chiếc tẩy nhỏ hình tam giác, hoặc miếng bông rất êm để vẽ tranh có diện rộng."
Đơn sơ, mộc mạc, cây bút trong tay ông cứ như “cây bút thần", khi đậm, khi nhạt, có nét như gió thoảng, mềm mại, bay bổng “thổi hồn” vào những bức tranh.
Cả đời người chuyên tâm theo nghề, gian khổ, nhưng cũng đáng tự hào. Tranh của ông được mời tham gia triển lãm ở Nhật, Mỹ, Anh… Năm 2000, ông có tới 14 bức tranh tuyền thần được trưng bày tại một cuộc triển lãm lớn ở Nhật Bản. Thế giới biết đến tranh của ông.
Ở tuổi 75, ông còn một ước mơ đó là kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, nếu còn đủ sức cầm cây bút vẽ, ông sẽ đội khăn xếp đỏ, mặc áo đỏ, ngồi tại ngôi nhà 47 phố Hàng Ngang vẽ truyền thần phục vụ quý khách trong và ngoài nước./.
Lê Sĩ Tuấn Phúc (TT&VH/Vietnam+)