Con đường “đôi” dài chừng một km trước cửa Ủy ban Nhân dân xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh những ngày này tấp nập xe máy, ôtô vận chuyển hàng mã.
Đã 10 năm nay, làng tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc chỉ còn một vài nghệ nhân sản xuất tranh, 80% số hộ trong làng đã chuyển sang nghề làm hàng mã.
Mai một làng tranh
Nghệ nhân tranh dân gian Đông Hồ Nguyễn Đăng Chế cho biết nghề làm tranh dân gian Đông Hồ “thịnh” nhất là giai đoạn những năm 1945 trở về trước, với 17 dòng tranh các loại. Còn từ đó đến năm 1985, tranh Đông Hồ gần như không còn được mọi người chú ý.
Bước vào những năm đổi mới, nghề tranh Đông Hồ bắt đầu được khôi phục với mô hình tổ làm tranh thuộc hợp tác xã do ông Nguyễn Hữu Sam làm tổ trưởng. Nhưng cũng phải đến năm 1995, dòng tranh này mới được khôi phục một cách đúng nghĩa khi Bộ Văn hóa Thông tin (cũ) công nhận Đông Hồ là làng nghề truyền thống cần được bảo vệ, giữ gìn và phát huy.
Từ đó đến nay, nghề làm tranh Đông Hồ đã được các nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, Nguyễn Hữu Sam... giữ gìn và phát huy.
Song, do cơ chế thị trường và cách hưởng thụ văn hóa của đại bộ phận người dân đã thay đổi, họ thích sở hữu những tấm tranh, ảnh hiện đại như cảnh thiên nhiên, bloc lịch khổ lớn có ảnh thiếu nữ, bon sai nên dòng tranh dân gian Đông Hồ với các tích trò như "Đám cưới chuột," "Đánh ghen," "Hứng dừa" và "Đàn lợn" không còn thu hút sự quan tâm của nhiều người.
Nghề làm tranh Đông Hồ nổi tiếng một vùng Kinh Bắc lại một lần nữa có nguy cơ mai một.
Không khuyến khích vẫn phát triển
Xe chúng tôi không thể chạy quá 20 km/giờ bởi đường dẫn tới trụ sở Ủy ban Nhân dân xã Song Hồ nườm nượp xe ôtô, xe máy về đây đóng hàng mã chuyển đi nơi khác.
Từ lâu, người dân Đông Hồ đã sống bằng nghề làm hàng mã. Cứ mỗi dịp như ngày rằm tháng Bảy Âm lịch hay Tết Nguyên đán, người dân làng Đông Hồ lại mướt mồ hôi cũng không đáp ứng đủ những đơn đặt hàng.
Tuy đã được đồng nghiệp giới thiệu, nhưng quả thật khi đến làng tranh dân gian Đông Hồ dù có tưởng tượng mấy tôi cũng không thể tin vào mắt mình bởi có tới “cả núi” hàng mã, tập trung thành đống to, đống nhỏ suốt từ trong nhà ra đường cái, không khí làm việc nhộn nhịp, khẩn trương khác hẳn với ba gia đình làm nghề tranh dân gian truyền thống.
Chị Phạm Thị Mến, một chủ hộ chuyên sản xuất hàng mã cho hay những ngày này, tôi cùng bốn nhân lực trong gia đình và ba lao động thời vụ tập trung “sản xuất hết công suất” để đảm bảo đủ hàng do một đại lý ở Thanh Hóa đặt cách đây ba tháng.
Chỉ tính riêng từ đầu tháng Bảy Âm lịch đến nay, gia đình tôi đã xuất ba ôtô hàng mã chủ yếu là quần áo, giày dép, đồ gia dụng… đi ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và Lào Cai đáp ứng nhu cầu hàng mã cho nhân dân cúng dịp lễ Vu Lan báo hiếu.
Dạo quanh làng, chứng kiến cảnh trong nhà dân, nhà nào nhà nấy chất đầy nguyên vật liệu làm mã như giấy bìa, màu, phẩm, các khung hình mây, tre, nứa để làm đồ mã, từ ngựa, voi, tivi, tủ lạnh, máy bay, xe hơi, nhà lầu...
Anh Nguyễn Đăng Tâm quả quyết: "Ở Đông Hồ, hàng mã chẳng thiếu thứ gì. Khó như “sản xuất” Boeing 777 chúng tôi còn làm được huống chi mấy con xe SH, @....”
Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Song Hồ Nguyễn Văn Tuân cho biết toàn xã có trên 1.200 hộ, nhưng có tới 80% số hộ đã chuyển nghề từ làm tranh dân gian sang làm hàng mã.
Nếu làm hàng cao cấp như voi, ngựa, ôtô, máy bay…, ngày công có thể lên tới 70.000 đồng/người/ngày; nếu chỉ làm những mặt hàng đơn thuần như giày dép, mũ áo, cũng được từ 35.000-40.000 đồng/người/ngày nên phần lớn số người dân ở đây sống được nhờ vào nghề làm hàng mã.
Số hộ gia đình có thu nhập từ 100 triệu đồng đến vài tỷ đồng mỗi năm từ nghề làm hàng mã không còn là chuyện hiếm ở Song Hồ. Nếu như những năm 1995, số hộ trong xã có xe máy chỉ đếm trên đầu ngón tay, nay mỗi nhà có từ 2-3 chiếc là chuyện thường, cả xã đã có 35 gia đình mua được ôtô, trong đó có nhiều xế hộp lên tới cả tỷ đồng.
Song, hiện tại ở Đông Hồ vẫn còn nhiều nghệ nhân tâm huyết với nghề. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế cho biết không phải bây giờ nghề làm hàng mã mới phát triển mà việc làm hàng mã đã gắn liền với việc làm tranh cách đây cả chục năm về trước.
Việc những hộ dân làm hàng mã “rầm rộ” như nay cũng chỉ là nhất thời. Tôi tin tưởng nghề tranh sẽ phát triển trở lại khi các nghệ nhân tâm huyết truyền nghề.
Trước đây, tranh Đông Hồ không có khung nên khó quảng bá được hình ảnh của tranh dân gian nhưng bây giờ những bộ tranh tứ quí, cá chép... vẽ trên giấy dó ẩn hiện trong khung tre, gỗ trang trọng đã được du khách mến mộ.
Một bộ tranh tứ quí cao 80cm, rộng 40cm có giá 700.000 đồng/bộ, tranh đàn gà có khung 60.000 đồng/chiếc bán rất chạy nên người làm tranh cũng đã sống được bằng nghề.
Mặt khác, việc các nghệ nhân khôi phục làng tranh Đông Hồ cũng đã góp phần quảng bá hình ảnh một làng nghề truyền thống, thu hút đông đảo khách du lịch gần xa tìm về làng tranh dân gian truyền thống.
Để giữ nghề làm tranh truyền thống phát triển những hộ dân nơi đây tạm thời chuyển nghề sang làm hàng mã với ý định lấy ngắn nuôi dài, âu cũng là bước thăng trầm của một làng nghề truyền thống./.
Đã 10 năm nay, làng tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc chỉ còn một vài nghệ nhân sản xuất tranh, 80% số hộ trong làng đã chuyển sang nghề làm hàng mã.
Mai một làng tranh
Nghệ nhân tranh dân gian Đông Hồ Nguyễn Đăng Chế cho biết nghề làm tranh dân gian Đông Hồ “thịnh” nhất là giai đoạn những năm 1945 trở về trước, với 17 dòng tranh các loại. Còn từ đó đến năm 1985, tranh Đông Hồ gần như không còn được mọi người chú ý.
Bước vào những năm đổi mới, nghề tranh Đông Hồ bắt đầu được khôi phục với mô hình tổ làm tranh thuộc hợp tác xã do ông Nguyễn Hữu Sam làm tổ trưởng. Nhưng cũng phải đến năm 1995, dòng tranh này mới được khôi phục một cách đúng nghĩa khi Bộ Văn hóa Thông tin (cũ) công nhận Đông Hồ là làng nghề truyền thống cần được bảo vệ, giữ gìn và phát huy.
Từ đó đến nay, nghề làm tranh Đông Hồ đã được các nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, Nguyễn Hữu Sam... giữ gìn và phát huy.
Song, do cơ chế thị trường và cách hưởng thụ văn hóa của đại bộ phận người dân đã thay đổi, họ thích sở hữu những tấm tranh, ảnh hiện đại như cảnh thiên nhiên, bloc lịch khổ lớn có ảnh thiếu nữ, bon sai nên dòng tranh dân gian Đông Hồ với các tích trò như "Đám cưới chuột," "Đánh ghen," "Hứng dừa" và "Đàn lợn" không còn thu hút sự quan tâm của nhiều người.
Nghề làm tranh Đông Hồ nổi tiếng một vùng Kinh Bắc lại một lần nữa có nguy cơ mai một.
Không khuyến khích vẫn phát triển
Xe chúng tôi không thể chạy quá 20 km/giờ bởi đường dẫn tới trụ sở Ủy ban Nhân dân xã Song Hồ nườm nượp xe ôtô, xe máy về đây đóng hàng mã chuyển đi nơi khác.
Từ lâu, người dân Đông Hồ đã sống bằng nghề làm hàng mã. Cứ mỗi dịp như ngày rằm tháng Bảy Âm lịch hay Tết Nguyên đán, người dân làng Đông Hồ lại mướt mồ hôi cũng không đáp ứng đủ những đơn đặt hàng.
Tuy đã được đồng nghiệp giới thiệu, nhưng quả thật khi đến làng tranh dân gian Đông Hồ dù có tưởng tượng mấy tôi cũng không thể tin vào mắt mình bởi có tới “cả núi” hàng mã, tập trung thành đống to, đống nhỏ suốt từ trong nhà ra đường cái, không khí làm việc nhộn nhịp, khẩn trương khác hẳn với ba gia đình làm nghề tranh dân gian truyền thống.
Chị Phạm Thị Mến, một chủ hộ chuyên sản xuất hàng mã cho hay những ngày này, tôi cùng bốn nhân lực trong gia đình và ba lao động thời vụ tập trung “sản xuất hết công suất” để đảm bảo đủ hàng do một đại lý ở Thanh Hóa đặt cách đây ba tháng.
Chỉ tính riêng từ đầu tháng Bảy Âm lịch đến nay, gia đình tôi đã xuất ba ôtô hàng mã chủ yếu là quần áo, giày dép, đồ gia dụng… đi ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và Lào Cai đáp ứng nhu cầu hàng mã cho nhân dân cúng dịp lễ Vu Lan báo hiếu.
Dạo quanh làng, chứng kiến cảnh trong nhà dân, nhà nào nhà nấy chất đầy nguyên vật liệu làm mã như giấy bìa, màu, phẩm, các khung hình mây, tre, nứa để làm đồ mã, từ ngựa, voi, tivi, tủ lạnh, máy bay, xe hơi, nhà lầu...
Anh Nguyễn Đăng Tâm quả quyết: "Ở Đông Hồ, hàng mã chẳng thiếu thứ gì. Khó như “sản xuất” Boeing 777 chúng tôi còn làm được huống chi mấy con xe SH, @....”
Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Song Hồ Nguyễn Văn Tuân cho biết toàn xã có trên 1.200 hộ, nhưng có tới 80% số hộ đã chuyển nghề từ làm tranh dân gian sang làm hàng mã.
Nếu làm hàng cao cấp như voi, ngựa, ôtô, máy bay…, ngày công có thể lên tới 70.000 đồng/người/ngày; nếu chỉ làm những mặt hàng đơn thuần như giày dép, mũ áo, cũng được từ 35.000-40.000 đồng/người/ngày nên phần lớn số người dân ở đây sống được nhờ vào nghề làm hàng mã.
Số hộ gia đình có thu nhập từ 100 triệu đồng đến vài tỷ đồng mỗi năm từ nghề làm hàng mã không còn là chuyện hiếm ở Song Hồ. Nếu như những năm 1995, số hộ trong xã có xe máy chỉ đếm trên đầu ngón tay, nay mỗi nhà có từ 2-3 chiếc là chuyện thường, cả xã đã có 35 gia đình mua được ôtô, trong đó có nhiều xế hộp lên tới cả tỷ đồng.
Song, hiện tại ở Đông Hồ vẫn còn nhiều nghệ nhân tâm huyết với nghề. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế cho biết không phải bây giờ nghề làm hàng mã mới phát triển mà việc làm hàng mã đã gắn liền với việc làm tranh cách đây cả chục năm về trước.
Việc những hộ dân làm hàng mã “rầm rộ” như nay cũng chỉ là nhất thời. Tôi tin tưởng nghề tranh sẽ phát triển trở lại khi các nghệ nhân tâm huyết truyền nghề.
Trước đây, tranh Đông Hồ không có khung nên khó quảng bá được hình ảnh của tranh dân gian nhưng bây giờ những bộ tranh tứ quí, cá chép... vẽ trên giấy dó ẩn hiện trong khung tre, gỗ trang trọng đã được du khách mến mộ.
Một bộ tranh tứ quí cao 80cm, rộng 40cm có giá 700.000 đồng/bộ, tranh đàn gà có khung 60.000 đồng/chiếc bán rất chạy nên người làm tranh cũng đã sống được bằng nghề.
Mặt khác, việc các nghệ nhân khôi phục làng tranh Đông Hồ cũng đã góp phần quảng bá hình ảnh một làng nghề truyền thống, thu hút đông đảo khách du lịch gần xa tìm về làng tranh dân gian truyền thống.
Để giữ nghề làm tranh truyền thống phát triển những hộ dân nơi đây tạm thời chuyển nghề sang làm hàng mã với ý định lấy ngắn nuôi dài, âu cũng là bước thăng trầm của một làng nghề truyền thống./.
Nguyễn Viết Tôn (Báo Tin tức/Vietnam+)