Hội nghị này được hỗ trợ bởi dự án ILO/Nhật Bản về “Thúc đẩy và xây dựngbảo hiểm thất nghiệp và dịch vụ việc làm trong ASEAN.”
Các đại biểu tham dự hội nghị đã được cung cấp những thông tin cập nhật vềmục đích hoạt động của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp; những dịch vụ và chế độ của bảohiểm thất nghiệp của người lao động bị thất nghiệp, bao gồm trợ cấp thất nghiệp,dịch vụ việc làm và hỗ trợ học nghề.
Đồng thời, các đại biểu cũng đã làm rõ vai trò, trách nhiệm của các cơquan thực hiện; quyền, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động,để bảo đảm rằng những người lao động bị thất nghiệp sẽ được nhận đầy đủ những hỗtrợ cần thiết và kịp thời từ hệ thống bảo hiểm thất nghiệp.
Ông Lê Quang Trung, Phó Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ Lao động-Thương binh vàXã hội, kinh tế khó khăn trong thời gian qua đã làm cho hàng loạt doanh nghiệpphá sản, giảm quy mô sản xuất, kinh doanh khiến nhiều công nhân phải nghỉ việc.
Tại thời điểm tháng Một năm nay, có khoảng 1,3 triệu người Việt Nam thấtnghiệp và hơn 4,5 triệu người tìm việc làm bán thời gian. Tuy tỷ lệ thất nghiệpchính thức của nam và nữ không chênh lệch đáng kể (2,7%-2,5% năm 2009) nhưng laođộng nữ thường làm những công việc với điều kiện không bảo đảm.
Việt Nam bắt đầu tham gia bảo hiểm thất nghiệp năm 2009 nhằm bảo vệ người laođộng trong trường hợp bị mất việc làm và không bị rơi vào tình trạng đói nghèo.Đây là nước đột phá trong chính sách an sinh xã hội. Việt Nam và Thái Lan là haiquốc gia ở Đông Nam Á có hệ thống bảo hiểm thất nghiệp cho đến nay.
Theo Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 12/2011, cả nước có7,9 triệu người lao động đã tham gia chương trình này; Quỹ bảo hiểm thất nghiệpcó kết dư 14.638 tỷ đồng. Đến tháng Tư năm nay, hệ thống tiếp nhận 694.000trường hợp đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, 560.000 người trong số này đã được nhậntrợ cấp thất nghiệp cùng các dịch vụ hỗ trợ khác. Trong số những người nhận trợcấp thất nghiệp, phụ nữ chiếm 60% và nhóm 25-40 tuổi chiếm 62%.
Những số liệu gần đây cho thấy tỷ lệ người lao động tìm được việc làm trướckhi kết thúc hưởng bảo hiểm thất nghiệp còn ở mức thấp, dưới 2% tổng số ngườihưởng trợ cấp thất nghiệp.
Tương tự, mới chỉ có ít hơn 1% số người hưởng trợ cấp thất nghiệp đăng ký họcnghề. Nguyên nhân của tình trạng này, bên cạnh những bất cập về thủ tục còn donhận thức chưa rõ ràng của người lao động và chủ sử dụng lao động về quyền,nghĩa vụ của họ khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp./.