Tranh chấp thương mại: Học nhiều song vẫn bị vấp

Giới chuyên gia cảnh báo, trong bối cảnh kinh tế giảm sút, các vụ việc tranh chấp thương mại có chiều hướng gia tăng và rất phức tạp.
Sự suy giảm kinh tế thế giới cùng với “thể trạng yếu” của nền kinh tế trong nước đã làm gia tăng hoạt động tranh chấp thương mại trong xã hội.

Nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về thực trạng khó khăn của các doanh nghiệp cũng như các hình thức tranh chấp thương mại thường gặp trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Trung tâm Trọng tài Quốc Tế Việt Nam (VIAC) phối hợp Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam đã tổ chức hội thảo “Cảnh báo về các tranh chấp thương mại trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế”.

Tại hội thảo, các diễn giả tập trung phân tích những khó khăn từ nền kinh tế thế giới và  thực trạng “sức khỏe” kinh tế trong nước đã tác động ảnh hưởng tới hệ thống doanh nghiệp, sức mua tiêu dùng của xã hội, từ đó đưa ra những cảnh báo về nguy cơ phát sinh những tranh chấp, cũng như chỉ ra các dạng tranh chấp giữa các quốc gia với quốc gia, giữa quốc gia với doanh nghiệp (kiện thương mại quốc tế, kiện giữa nhà đầu tư với quốc gia nhận đầu tư, các vụ kiện hành chính..), giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp đã và sẽ có khả năng xảy ra trên thực tế.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, các tác động chính của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với Việt Nam vào các lĩnh vực như xuất khẩu, do suy giảm thu nhập khiến lực cầu ở thị trường nước ngoài giảm. Bên cạnh đó hoạt động đầu tư xã hội giảm mạnh, đơn cử nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) cam kết đang giảm liên tục, hiện vẫn còn khoảng hơn 100 tỷ USD chưa được giải ngân… khiến tăng trưởng kinh tế trong nước giảm đáng kể.

Các yếu tố trên là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngừng hoạt động, giải thể, phá sản doanh nghiệp và các khó khăn khác đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và mọi ngành hàng.

Ông Cung dự báo, tình trạng các dự án hủy bỏ, đình hoãn, rút giấy phép… sẽ xảy ra nhiều yếu tố liên quan đến việc xử lý đất đã giao, đã cấp cho các dự án đồng thời phát sinh vấn đề giữa chính quyền địa phương với nhà đầu tư, nhà đầu tư với người nông dân… Chưa kể, một số dự án rơi vào trường hợp đã chuyển nhượng cho nhà đầu đầu tư khác (hoặc nhà đầu tư thứ cấp) những vấn đề phát sinh còn phức tạp hơn nhiều.

Đối với những doanh nghiệp FDI phá sản, đóng cửa… chủ sở hữu và người quản lý bỏ về nước, sẽ xuất hiện phát sinh tranh chấp giữa người lao động và chủ nợ, cùng các bên liên quan.

“Thậm chí là thị trường xuất khẩu, nhiều hoạt động thương mại tiểu ngạch qua biên giới thiếu minh bạch, rõ ràng nên ẩn chứa nhiều rủi ro. Thương nhân Việt Nam gặp phải rất nhiều bài học đau xót, song các bài học này vẫn luôn lặp đi, lặp lại mà vẫn chưa thuộc bài”.

Ngoài ra, ông Cung cũng quan ngại về một số nguy cơ phát sinh tranh chấp từ hoạt động vay nợ tín dụng giữa doanh nghiệp với ngân hàng, cá nhân. Ngoài ra, tình trạng chiếm dụng vốn, nợ xấu, quá trình sử lý tài sản thế chấp… dự báo trong thời gian tới sẽ rất phức tạp về pháp lý và nguy cơ các vụ tranh chấp là rất lớn.

Cụ thể hơn, Tiến sĩ Phan Chí Hiếu, Hiệu trưởng Đại học Luật Hà Nội đưa ra những cơ chế giải quyết và kinh nghiệm phòng ngừa tranh chấp từ cái nhìn thực tế các vụ tranh chấp tại VIAC.

Số liệu từ VIAC cho thấy, từ 2008 đến 2012 VIAC đã giải quyết những vụ tranh chấp có giá trị từ vài nghìn tỷ đồng tới hàng chục ngàn tỷ đồng, thời gian giải quyết mỗi vụ trung bình khoảng 5 tháng, trong đó tranh chấp thương mại quốc tế khoảng 38%, kinh tế 10%, tài chính ngân hàng 9%, vận tải 9%....

Ông Hiếu cho biết, tình hình kinh tế khó khăn dẫn đến tình trạng không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch thương mại là nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp về hợp đồng, tranh chấp trong nội bộ công ty.

Để giải quyết các tranh chấp này, theo ông Hiếu, doanh nghiệp có thể lựa chọn các phương thức thương lượng, trung gian hòa giải, trọng tài kinh tế hoặc tòa án thuộc vào các yếu tố như lợi ích kinh tế mà các bên đạt được, khả năng duy trì quan hệ hợp tác giữa các bên, khả năng giải quyết tranh chấp chính xác, nhanh chóng, khách quan, khả năng thi hành kết quả giải quyết tranh chấp, khả năng giữ uy tín và bí mật kinh doanh.

Các diễn giả tại hội thảo cũng chỉ ra, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vẫn là phương thức giải quyết được uy chuôn nhất trên thế giới, bởi nó có những ưu điểm như tính xét xử bí mật, qua đó đảm bảo được bí mật kinh doanh và uy tín của cá nhân, doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, vụ việc được giải quyết xét xử một lần với thủ tục đơn giản, thời gian nhanh chóng, linh hoạt, tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên tranh chấp, độc lập trong xét xử và phạm vị công nhận, thi hành rộng khắp trên 144 quốc gia là thành viên của Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài./.

Linh Chi (Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục