Bảo vệ người Ơ Đu trước nguy cơ xóa sổ

Trong nỗ lực cứu tộc người Ơ Đu khỏi nguy cơ biến mất, tỉnh Nghệ An đang phối hợp cùng các cơ quan hữu quan thực hiện nhiều biện pháp bảo tồn bản sắc văn hóa của tộc người cổ xưa và có ít dân số nhất trong các dân tộc Việt Nam.

Trong nỗ lực cứu tộc người Ơ Đu khỏi nguy cơ biến mất, tỉnh Nghệ An đang phối hợp cùng các cơ quan hữu quan thực hiện nhiều biện pháp bảo tồn bản sắc văn hoá của tộc người cổ xưa và có ít dân số nhất trong các dân tộc Việt Nam.

Theo đó, trong giai đoạn từ năm 2007 đến 2010, sẽ có khoảng gần 90 tỷ đồng được chi cho các hoạt động truyền dạy ngôn ngữ Ơ Đu, khôi phục và duy trì các sinh hoạt văn hoá của tộc người này và một số dân tộc thiểu số khác tại Nghệ An.

Những nghiên cứu khảo sát tại nơi những người Ơ Đu đầu tiên xuất hiện là huyện Tương Dương cho thấy, người Ơ Đu từng cư trú rất đông đúc dọc theo sông Nậm Nơn, Nậm Mộ và sống khá sung túc bằng nghề phát nương làm rẫy, đãi cát tìm vàng, đánh cá, buôn bán.

Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, nguyên là Phó Viện trưởng Viện Dân tộc học, cho  biết người Ơ Đu có ngôn ngữ và chữ viết riêng với loại chữ viết cổ, có nhiều phụ âm kép, cặp ba như bnt, drb, hrm, phrv, thrm.... Tiếng nói của họ theo ngữ hệ Môn-Khmer có pha trộn nhiều yếu tố Việt- Mường.

Tính đến nay, toàn bộ tộc Ơ Đu chỉ còn gần 600 người, tập trung đông ở bản Văng Môn, xã Nga My. Tuy nhiên, số người biết và sử dụng được tiếng Ơ Đu không còn nhiều, ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu hiện nay của họ là tiếng Thái, Khơ Mú.

Trao đổi qua điện thoại với phóng viên TTXVN, Trưởng phòng văn hoá huyện Tương Dương Lương Bá Vin cho rừng việc mai một ngôn ngữ, chữ viết và những nét văn hoá riêng của người Ơ Đu là do đặc điểm dân số ít, sống rải rác xen kẽ với các dân tộc khác, chịu tác động của xu thế ưa thích cái mới. Trong khi đó, việc duy trì các lễ hội, phong tục của dân tộc này lại không được chú trọng.

“Thậm chí, người Ơ Đu hiện nay đã sinh sống, ăn mặc như người dân tộc Thái và hầu như không còn nhớ cách dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình nữa”, ông Vin lo ngại.

Bởi vậy, để bảo tồn nét văn hoá của người Ơ Đu, theo những người làm công tác văn hoá ở đây, trước hết phải giúp họ xoá được mặc cảm tự ti, bị đồng hoá, tập trung cộng đồng người Ơ Đu thành một khu và tổ chức các khoá học tiếng một cách bài bản, thường xuyên, kết hợp với cá hoạt động lưu giữ các phong tục, tập quán của tộc người này.

Mấy năm gần đây, chính quyền địa phương nơi có đông người Ơ Đu nhất là huyện Tương Dương đã tổ chức nhiều lớp dạy tiếng Ơ Đu và đã thu hút được khá đông người tham gia. Tuy nhiên, công việc này cũng đang gặp khó khăn do những người am hiểu tiếng Ơ Đu đã lớn tuổi, khó giao tiếp, việc giảng dạy và truyền đạt ngôn ngữ buộc phải biên soạn theo kiểu phiên âm, không bổ sung được nhiều vốn từ.

Một người Ơ Đu đã 76 tuổi tâm sự rằng ông chỉ có thể nói tiếng Ơ Đu với vài người bạn cùng thế hệ, còn với con cháu thì chủ yếu dùng tiếng Thái và tiếng Kinh, “không biết phải dạy chúng về tiếng dân tộc mình như thế nào !”. Ông cũng lo rằng, nếu chính quyền không có chính sách giúp đỡ, sớm muộn ngôn ngữ cũng như những nét văn hoá Ơ Đu sẽ biến mất, khi những người già nhất bản không còn nữa.

Đây cũng đang là mối quan tâm không chỉ của các cơ quan chức năng trong nước mà của cả một số tổ chức quốc tế khác. Năm 2008, Oxfam Hồng Kông, một tổ chức phi chính phủ có 20 năm hoạt động tại Việt Nam, đã có những nghiên cứu cụ thể về văn hoá của người Ơ Đu tại những vùng triển khai dự án, bên cạnh những chương trình trợ giúp nâng cao mức sống cho người dân địa phương./.

Hương Giang (Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục