Điều đó cho thấy vai trò đầu tàu tăng trưởng mà nhóm nước mớinổi đảm đương kể từ sau cuộc khủng hoảng năm 2008-2009 đang được trả lại chokhối kinh tế phát triển.
Các trung tâm kinh tế mạnh đang trở lại
Một trong những lực đẩy cho sự dịch chuyển đó trong kinh tế toàn cầu là sựhồi sinh của nước Nhật sau nhiều năm là điểm yếu của kinh tế toàn cầu.
Theo sốliệu của Chính phủ Nhật Bản, kinh tế nước này trong quý II/2013 tăng trưởng 2,6%so với cùng kỳ năm ngoái, chậm hơn mức đã được điều chỉnh là 3,8% trong quý Một.Tuy nhiên, đây vẫn là những con số có ý nghĩa lớn đối với một nền kinh tế đãtrải qua nhiều năm trì trệ.
Gần đây, kinh tế Nhật Bản đón nhận những dấu hiệu rất đáng mừng. Trongtháng Sáu, giá tiêu dùng đã chuyển hướng tăng cao hơn lần đầu tiên trong 14tháng, mang đến hy vọng cho nước này thoát khỏi tình trạng giảm phát đã kéo dàitrong gần hai thập niên.
Trong khi đó, tiêu dùng - đóng góp khoảng 60% GDP -tăng thực tế 0,8% trong quý II/2013, quý tăng thứ ba liên tiếp, trong lúc lòngtin tiêu dùng được cải thiện khi giá cổ phiếu tăng cao.
Đồng thời, xuất khẩutrong quý vừa qua tăng 3%, quý tăng thứ hai liên tiếp, với sự hồi phục của kinhtế Mỹ và chính sách thúc đẩy kinh tế do Thủ tướng Shinzo Abe khởi xướng đã làmgiảm giá đồng yen.
Trong khi đó, sự phục hồi của nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ được vínhư đợt triều dâng, nâng các nền kinh tế khác cùng đi lên.
Trong quý Hai vừa qua,tăng trưởng kinh tế của Mỹ đạt 1,7%, tăng so với các mức 1,1% trong quý Một và0,1% trong quý Tư năm ngoái, một phần lớn nhờ chi tiêu tiêu dùng tăng.
Ngườitiêu dùng Mỹ đã là động lực quan trọng cho tăng trưởng toàn cầu suốt thập kỷ quacho tới khi suy thoái kinh tế bắt đầu năm 2007 khiến nhu cầu sụt giảm. Chi tiêudùng tại Mỹ vẫn giữ đà tăng từ đầu năm tới nay bất chấp thuế tăng, tăng trưởngviệc làm, lương ở mức vừa phải.
Các nhà kinh tế dự báo nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ tăng trưởng mạnhhơn trong nửa cuối năm nay, đạt khoảng 2,5%, khi tăng trưởng việc làm ổn định,giá nhà tăng, thị trường ôtô phục hồi mạnh và tình hình tại châu Âu và các thịtrường xuất khẩu khác sáng sủa hơn.
Thị trường ôtô Mỹ trong tháng 7/2013 đã đạtmức trước khủng hoảng, với doanh số bán xe đạt mức cao nhất trong vòng bảy nămqua.
Trong khi đó, giá nhà ở tại Mỹ trong tháng Năm vừa qua tăng hơn 12% so vớicùng kỳ năm 2012, mức tăng mạnh nhất kể từ tháng 3/2006. Đồng thời, tỷ lệ thấtnghiệp trong tháng Bảy vừa qua giảm xuống 7,4%, mức thấp nhất trong 4 năm qua.
Trong khi đó, Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã chínhthức thoát khỏi đợt suy thoái kinh tế kéo dài nhất trong lịch sử, khi các sốliệu công bố ngày 14/8 cho thấy GDP của 17 nền kinh tế thành viên tăng 0,3%trong quý Hai vừa qua.
Bên cạnh đó, không khí lạc quan cũng trở lại với châu Âunhờ một loạt chỉ số kinh tế tích cực như thất nghiệp giảm, sản xuất công nghiệptăng và lòng tin kinh doanh được cải thiện. Là khu vực thương mại lớn nhất thếgiới, những dấu hiệu phục hồi dù là nhỏ nhất tại châu Âu cũng là điềm lành đốivới kinh tế toàn cầu trong thời gian từ nay tới hết năm.
Nhóm nước mới nổi có triệu chứng "hụt hơi"
Người ta bắt đầu nói đến chuyện kinh tế Trung Quốc sẽ “hạ cánh cứng” khinền kinh tế lớn thứ hai thế giới này không giữ vững được đà tăng trưởng trongnhững năm gần đây.
Tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc sụt giảm dần, xuống đến9,3% năm 2011 và sau đó là 7,8% năm 2012, mức tăng chậm nhất trong 13 năm qua.
Sang năm nay, nền kinh tế này tiếp tục giảm tốc, từ 7,7% trong quý Một xuống 7,5%trong quý Hai, quý thứ chín trong 10 quý trở lại đây, tăng trưởng kinh tế củaTrung Quốc yếu đi. Những số liệu kinh tế này cho thấy một thực tế là thời kỳtăng trưởng trung bình trên 9% trong ba thập niên qua của Trung Quốc dường nhưđã đi vào dĩ vãng.
Về nguyên nhân tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại, có rấtnhiều yếu tố như sức sản xuất giảm kéo theo tỷ lệ đầu tư đi xuống,tình hình kinh tế thế giới ảm đạm cũng như một số nước thực hiệnchính sách nới lỏng định lượng khiến đồng Nhân dân tệ tăng giá, ảnhhưởng đến xuất khẩu, trong khi chi phí nhân công tăng.
Việc Chính phủ TrungQuốc chủ động điều chỉnh mô hình tăng trưởng, ổn định hệ thống tài chínhcũng là một trong những nguyên nhân khiến tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Ở một nền kinh tế mới nổi khác là Brazil, tăng trưởng kinh kế trong quýI/2013 thấp một cách đáng thất vọng là 0,6%, sau khi chỉ đạt mức 0,9% trong năm2012, so với con số 2,7% trong năm 2011 và 7,5% năm 2010.
Brazil đang cảm nhậnđược những tác động từ sự suy giảm kinh tế tại Eurozone, sự phục hồi chậm chạptại Mỹ và sự giảm tốc của kinh tế Trung Quốc.
Brazil, nền kinh tế lớn nhất MỹLatinh, trì trệ một phần vì nhu cầu của Trung Quốc với các mặt hàng của nước nàynhư quặng sắt giảm đi.
Kinh tế Nga trong quý II/2013 chỉ tăng trưởng 1,2% so với cùng kỳ nămngoái, thấp hơn so với mức tăng trưởng vốn đã thấp 1,6% trong quý I/2013 cũngnhư mức dự báo tăng 1,9% của Bộ Kinh tế Nga.
Theo ngân hàng đầu tư RenaissanceCapital, mức tăng trưởng của quý II vừa qua là thấp nhất kể từ quý IV/2009 và làquý thứ sáu liên tiếp đà tăng trưởng kinh tế của Nga suy giảm. Ngân hàng này chorằng nguyên nhân là do tình trạng chậm lại trong cả tiêu thụ, đầu tư và xuấtkhẩu.
Còn tại Ấn Độ, tăng trưởng GDP chỉ đạt 5% trong năm tài chính 2012-2013(kết thúc ngày 31/3/2013), mức thấp nhất trong vòng một thập niên.
Bên cạnhnhững yếu tố bên ngoài như sự suy giảm của kinh tế toàn cầu, nguyên nhân củaviệc tăng trưởng giảm xuống thấp còn là do tình trạng “thắt cổ chai” trong cơcấu kinh tế, lòng tin kinh doanh, nguồn vốn đầu tư sụt giảm, khi lạm phát, thâmhụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn cao.
Trong tình hình hiện nay, tiến triển rất đáng hoan nghênh ở các nền kinhtế phát triển là tin tốt lành, có thể giúp các nền kinh tế mới nổi ổn định tăngtrưởng thông qua việc thúc đẩy xuất khẩu. Xuất khẩu của Trung Quốc, Hàn Quốc vàẤn Độ tăng trở lại trong tháng Bảy, sau khi giảm trong tháng Sáu. Xuất khẩu củaTrung Quốc tới Mỹ và châu Âu tăng mạnh, củng cố nhận định rằng nhu cầu ở các nềnkinh tế phát triển sẽ kéo các thị trường mới nổi lên.
Mọi chuyện vẫn có thể thay đổi
Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu từ các nước phát triểnsẽ không giúp ích nhiều cho tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi dựa vào xuấtkhẩu như trước đây.
Trước hết là nhu cầu của người Mỹ với hàng nhập khẩu khôngmạnh như trước và sự phục hồi của kinh tế Mỹ không chỉ nhờ tiêu dùng mà còn nhờnhững lĩnh vực ít liên quan đến việc nhập khẩu hàng hóa như bất động sản.
Tiếptheo đó, sự phục hồi của kinh tế Nhật Bản gắn liền với sự xuống giá mạnh củađồng yên, khiến cho hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn và có nghĩa người Nhật Bản sẽcó xu hướng chọn mua hàng nội địa nhiều hơn. Đồng thời, sự phục hồi mới bắt đầucủa châu Âu chưa làm cho hoạt động thương mại gia tăng như kỳ vọng của các nềnkinh tế mới nổi.
Bên cạnh đó, khi các nền kinh tế lớn như Mỹ phục hồi, chính sách tiền tệđược thắt chặt, lãi suất tăng lên thì sức hấp dẫn của các thị trường mới nổi sẽgiảm và các dòng vốn sẽ chuyển hướng quay về Mỹ.
Trong vòng hai tháng qua, cácquỹ nước ngoài đã rút 11,58 tỷ USD khỏi thị trường chứng khoán và thị trườngtrái phiếu Ấn Độ. Những đồn đoán về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ sớm chấm dứtchương trình mua trái phiếu có trị giá lên tới 85 tỷ USD/tháng đã khiến đồngtiền của các nước mới nổi, trong đó có đồng rupee Ấn Độ, bị mất giá nghiêmtrọng.
Hơn thế nữa, dù tình hình đã ổn định, các nền kinh tế phát triển vẫn cònnhiều việc phải làm. Với Mỹ, nền kinh tế dù đang tiếp tục tăng trưởng song mứctăng vẫn dưới 2%, quá thấp để có thể hạ tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức cao.
VớiNhật Bản, việc nền kinh tế tăng trưởng chậm lại trong quý Hai gây nghi ngại liệunước này có tiến hành tăng thuế tiêu dùng theo lộ trình đã đề ra nhằm giảm nợcông đang ở mức tồi tệ nhất trong số các nước phát triển.
Tại châu Âu, tăngtrưởng chỉ mới trở lại và còn rất thấp, trong lúc một số quốc gia thành viên vẫncó tỷ lệ thất nghiệp quá cao. Khi việc thực hiện các biện pháp cải cách cầnthiết nhưng đầy khó khăn vẫn đang trong giai đoạn đầu, khu vực này vẫn còn "mộtchặng đường rất dài ở phía trước.
Vì thế, sự xoay chuyển cục diện trong nền kinh tế toàn cầu vẫn có thể bịđảo ngược nếu các nền kinh tế mới nổi tăng tốc trở lại kể cả là không nhiều.Nhiều nền kinh tế mới nổi vẫn đang có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, dùkhông được như trước đây. Mục tiêu tăng trưởng cả năm chính thức ở mức 7,5% củaTrung Quốc là thấp nhất kể từ năm 1990, nhưng vẫn vượt xa so với tốc độ tăngtrưởng khoảng 2% của Mỹ.
Có lẽ cũng cần phải nhắc lại rằng trước đây cũng đã từng xuất hiện nhữngdấu hiệu phục hồi của kinh tế toàn cầu, nhưng sau đó sức phục hồi đã bị mất dần.Đó là vào thời điểm đầu năm 2011, khi các nền kinh tế chủ chốt của châu Âu đã cótín hiệu cải thiện, nhưng cuộc khủng hoảng nợ công tại Eurozone vẫn ngày một tồiđi. Hai đợt nâng lãi suất của Ngân hàng Trung ương châu Âu khi đó đã bóp nghẹttín dụng, đặc biệt là tại Nam Âu, gây khó khăn cho các nền kinh tế khu vực./.