Việt Nam đang trên đà phục hồi mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước dần vượt qua đại dịch COVID-19. Nhờ vậy, chúng ta có thể thấy rõ nền kinh tế dịch chuyển từ trạng thái cầm cự sang phát triển và tăng trưởng.
Tuy nhiên, theo ông Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, để có thể phát huy tối đa tiềm năng trong những năm tới, Việt Nam cần đón đầu một loạt xu hướng lớn trên thế giới được dự báo sẽ định hình tương lai các quốc gia.
Đầu tiên, biến đổi khí hậu vừa là thách thức vừa là cơ hội cho một đất nước như Việt Nam. Là một quốc gia có đường bờ biển dài với dân số gần 100 triệu dân và một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, viễn cảnh mực nước biển tăng và mùa màng thất bát khi trái đất nóng lên là một mối đe dọa cho an sinh và phồn vinh của xã hội. Khu vực châu Á, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, hiện đang đứng đầu về biến đổi khí hậu.
“Nếu chúng ta không hành động mạnh mẽ, tới năm 2050, châu Á có thể đối diện với nguy cơ GDP tổn thất từ 2.800 tỷ USD đến 4.700 tỷ USD, chiếm hơn 2/3 tổn thất GDP trên toàn cầu do tác động của biến đổi khí hậu,” ông Tim Evans nhấn mạnh.
[HSBC: Việt Nam đã lấy lại đà phục hồi ổn định vững vàng]
Theo lãnh đạo HSBC, Việt Nam sẽ cần nỗ lực hơn nữa để tiến tới giảm phụ thuộc vào than như nguồn phát điện và nguồn hàng xuất khẩu. Điện than hiện chiếm khoảng 1/3 sản lượng điện toàn quốc. Chính phủ gần đây đã cam kết tới năm 2045 sẽ giảm tỷ lệ điện than trên toàn hệ thống xuống dưới 10% và phát triển ngành năng lượng tái tạo để tăng tỷ trọng ngành này lên hơn 50% từ mức hiện tại 12%.
Tiếp đến là số hóa, đại dịch đã đẩy nhanh tiến độ chuyển dịch sang một xã hội số hóa không gián đoạn và kích thích tạo ra những thay đổi về hành vi của người tiêu dùng, những thay đổi này không chỉ xảy ra trong thoáng chốc mà nhiều khả năng mang đến tác động lâu dài.
Một trong những tác động lớn của cách mạng số hóa là bình đẳng hóa sân chơi trên toàn cầu, cho phép những quốc gia như Việt Nam cạnh tranh với nhiều nền kinh tế tiên tiến hơn. Các doanh nghiệp như VNG, MoMo và VNPay, những kỳ lân của Việt Nam đều có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Nếu chúng ta muốn nối dài chuỗi thành công đó, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào giáo dục và khả năng tiếp cận nhằm xây dựng một hệ sinh thái số phát triển để thúc đẩy sáng tạo.
Đối với vấn đề bình đẳng về tiêm phòng, ông Tim Evans cho rằng COVID-19 là một lời nhắc nhở rằng đại dịch không chừa một ai. Việt Nam là một tấm gương sáng về tiêm vaccine với tỷ lệ bao phủ cao nhất thế giới. Bộ Y tế đã đặt mục tiêu hoàn thành chiến dịch tiêm chủng cho trẻ em từ 5 đến 11 tuổi trong quý 2 năm nay. Đây là một thành tựu quan trọng nếu xem xét bối cảnh thời điểm 12 tháng trước. Việt Nam có thể chia sẻ kinh nghiệm, chuyên môn để hỗ trợ các nước láng giềng để đạt được miễn dịch cộng đồng. Chỉ khi các nước cùng đạt được tỷ lệ bao phủ vaccine thì khu vực Đông Nam Á mới có thể cùng phục hồi tối đa.
“Chúng ta phải tăng cường hợp tác toàn cầu trong nghiên cứu, phát triển, sản xuất, cung ứng nguyên liệu thô, phân phối, vận chuyển, lưu trữ, miễn trừ sở hữu trí tuệ trong vấn đề vaccine để giúp các quốc gia đang phải vất vả cạnh tranh với những nước giàu để giành được những suất vaccine và nguồn cung vật tư y tế với chi phí phù hợp,” ông Tim Evans khuyến cáo.
Cũng theo ông Tim Evans, COVID-19 vẫn đang tiếp tục gây ra gián đoạn các chuỗi cung ứng toàn cầu nhưng các hoạt động thương mại vẫn là con đường ngắn và trực tiếp nhất để đạt được tăng trưởng kinh tế.
Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 15 hiệp định tự do thương mại (FTA) trong đó gần đây nhất là Hiệp định đối tác hinh tế toàn diện khu vực (RCEP) vừa chính thức có hiệu lực từ đầu năm nay, giúp Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế cởi mở nhất trên thế giới. Các FTA này được kỳ vọng sẽ đóng vai trò quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế Việt Nam trong năm nay.
Các hiệp định này rõ ràng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và đi kèm với đó là những thách thức, bởi sẽ cần tiến hành thêm nhiều cải cách trong nước để giữ được vị thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ cần tiếp tục hợp tác với các quốc gia châu Á khác để tạo điều kiện cho các dòng chảy đầu tư trong khu vực cũng như tháo gỡ những rào cản không liên quan đến thuế để cả khu vực có thể phát huy tối đa tiềm năng thương mại.
Đối với địa chính trị, theo ông Tim Evans xung đột ở Ukraine và những căng thẳng địa chính trị ở những nơi khác trên thế giới sẽ còn tiếp tục tạo ra những bất ổn không mong muốn lên nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh quốc tế còn nhiều rối ren, thái độ cởi mở và lập trường nhất quán của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một ý kiến đáng trân trọng.
Thông thường, mỗi khi xảy ra bất ổn, các nước sẽ có xu hướng co cụm lại và quay vào trong, đó là lẽ tự nhiên, nhưng những vấn đề lớn của cả thế giới như biến đổi khí hậu, dịch bệnh và lạm phát chỉ có thể được giải quyết trên tinh thần hợp tác sâu rộng.
Cuối cùng, đối với vấn đề bất bình đẳng và phục hồi toàn diện. Ông Tim Evans cho rằng, tác động của đại dịch là vô cùng to lớn. Ngay cả khi đã phục hồi thì “di chứng hậu COVID” vẫn còn. Đó là bất bình đẳng và nợ nần cùng gia tăng. Chính cộng đồng nghèo và dễ bị tổn thương nhất lại là nhóm chịu tác động nặng nề nhất từ COVID-19, hàng triệu người bị đẩy vào cảnh nghèo đói và khắc sâu thêm vấn đề bất bình đẳng.
Ông Tim Evans khuyến nghị Việt Nam cần nhanh chóng nhìn nhận và giải quyết những tác động không nhỏ của COVID-19 đối với vấn đề này vì các nước đang phát triển thu nhập thấp cần có vaccine và nhận được sự hỗ trợ cần thiết để phục hồi. Đây cũng là cơ hội để xây dựng khả năng chống chịu của cộng đồng nhằm giảm nhẹ tác động của thiên tai cũng như đề phòng những khủng hoảng khác trong tương lai. Đó có thể là tăng cường đầu tư vào y tế và giáo dục, tạo ra một thị trường lao động cạnh tranh và công bằng, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính và công nghệ cho người dân./.