Tuy nhiên, tờ “Thời báo Tài chính” (Anh) nhận định, tác động này sẽ sớm chấm dứt và châu Á vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng bìnhquân 8%/năm, trừ phi xảy ra một thảm họa hạt nhân cực lớn ở Nhật Bản.
Theo bài báo trên, có hai lý do để lạc quan. Thứ nhất, các thảm họa phá hủy hạtầng, dù ở quy mô lớn, sẽ chỉ để lại ảnh hưởng đáng kể khoảng vài tháng đối vớicác nền kinh tế phát triển. Bởi sự suy giảm tăng trưởng ngay sau đó sẽ được bùđắp bằng những nỗ lực hồi phục nền kinh tế.
Hầu hết các nhà kinh tế cho rằng, hậu quả của trận động đất sẽ làm kinh tế NhậtBản suy giảm trong quý hiện tại nhưng lại tăng trưởng nhanh hơn kể từ giữa năm.Citigroup dự đoán kinh tế của Nhật sẽ tăng trưởng thêm 0,2% trong 12 tháng tới,trong khi Moody’s cho rằng so với dự báo trước, tăng trưởng GDP của Nhật sẽ giảm0,4% trong năm 2011, nhưng sẽ tăng 0,4% trong năm 2012.
Lý do thứ hai là mặc dù chiếm 6% tổng GDP toàn cầu, kinh tế Nhật Bản không cònquan trọng đối với châu Á như trước đây. Theo Citigroup, 16 năm sau thảm họađộng đất Kobe, thị phần của Nhật Bản trong xuất khẩu của các nước châu Á đã giảm40% xuống còn 7,3%. Các nước còn dính dáng nhiều tới Nhật là Indonesia vàPhilippines.
Theo Nomura, hơn 15% xuất khẩu của hai nước này có đích đến là NhậtBản. Tuy nhiên, cả hai nền kinh tế đều đã định hướng tăng cầu nội địa, và giátrị xuất khẩu sang Nhật Bản của họ chiếm chưa đầy 4% GDP.
Thái Lan, Singapore và Malaysia dễ bị tác động hơn, bởi xuất khẩu của họ sang Nhậtchiếm 6-8% GDP, nhưng cả ba đều sẽ được lợi từ quá trình tái thiết của Nhật Bản,bởi nó đòi hỏi nhập khẩu nhiều vốn và vật liệu xây dựng như ximăng, sắt thép vàgỗ. Xuất khẩu của Trung Quốc sang Nhật cũng chỉ chiếm khoảng 2% GDP.
Ivailo Izvorski, chuyên gia phụ trách Đông Á tại Ngân hàng Thế giới, dự đoán tácđộng của trận động đất tại Nhật Bản tới kinh tế châu Á sẽ chỉ kéo dài 2-3 tháng,sau đó, cùng với nỗ lực tái thiết của Nhật Bản, hoạt động kinh tế sẽ sôi động vàthúc đẩy tăng trưởng.
Sự gián đoạn về nguồn năng lượng hạt nhân ở Nhật Bản cũng sẽ tác động tích cựctới các nền kinh tế châu Á. Credit Suisse dự đoán tập đoàn điện lực TokyoElectric Power sẽ phải sử dụng rất nhiều tổ máy phát điện chạy bằng than để bùđắp cho sản lượng điện hạt nhân một khi cuộc khủng hoảng trôi qua và các hảicảng mở cửa trở lại.
Sử dụng nhiều than sẽ làm nhập khẩu than của Nhật Bản tăngthêm 10 triệu tấn/tháng, chủ yếu được cung cấp từ các mỏ ở Australia vàIndonesia. Các cơ sở khai thác dầu khí của Malaysia và Brunei cũng sẽ được lợitừ nhu cầu nhập khẩu năng lượng gia tăng của Nhật Bản.
Các công ty ở một số nước châu Á cũng có cơ hội tăng doanh số bán hàng một khiđối thủ ở Nhật Bản thu hẹp hoạt động. Joanna Chua, nhà kinh tế của Citigroup ởHong Kong nói Hàn Quốc và Đài Loan có cơ cấu xuất khẩu giống Nhật Bản nhất, dođó sẽ được lợi nhiều nhất. Ví dụ dễ thấy là hai tập đoàn ôtô Hyundai và Kia củaHàn Quốc sẽ được lợi từ việc đối thủ trực tiếp - hãng Toyota của Nhật Bản - phảithu hẹp hoạt động.
Tương tự, các nước như Thái Lan và Indonesia sẽ được lợi nếucác tập đoàn ôtô Nhật Bản mở rộng sản xuất ở nước ngoài để bù đắp cho sản lượngsuy giảm ở trong nước.
Tuy nhiên, các công ty chế tạo ở các nước láng giềng có thể bị thiệt hại nặng dophụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu từ Nhật Bản. Vùng lãnh thổ Đài Loan và TháiLan nổi bật nhất trong số này, với hơn 20% nhập khẩu đến từ Nhật Bản, trong đóchủ yếu là thiết bị cơ khí và linh kiện điện tử. Hàn Quốc, Malaysia, Việt Nam vàSingapore cũng có thể bị ảnh hưởng, bởi các nước này có 11-15% nhập khẩu bắt nguồntừ Nhật.
Đã có dấu hiệu cho thấy một số công ty chế tạo ở châu Á sẽ buộc phải chuyển đổicơ sở sản xuất. Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng tác động này sẽkhông nghiêm trọng hoặc kéo dài, một phần bởi nguồn hàng nhập khẩu từ Nhật Bảnsẽ được nối lại khi nước này bắt đầu công cuộc tái thiết, phần khác bởi các nhàchế tạo sẽ chuyển sang nhập thiết bị từ các nước khác.
Trên thị trường tài chính, một số nhà phân tích lo sợ châu Á sẽ xảy ra một lànsóng rút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài, hoặc về lâu dài đầu tư trực tiếpnước ngoài (FDI) đến từ Nhật Bản sẽ suy giảm. Đây là hai yếu tố quan trọng giúpnhiều nền kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh.
Tuy nhiên, sự chênh lệch về lãisuất giữa châu Á và các nước phương Tây sẽ là yếu tố giữ chân các nhà đầu tư,tất nhiên không kể trường hợp xảy ra thảm họa hạt nhân. Về FDI, còn quá sớm đểdự đoán xu hướng, nhưng nhìn chung nguồn vốn đến từ Nhật Bản sẽ tăng lên thay vìgiảm đi, do các công ty nước này sẽ tìm cách san sẻ rủi ro bằng việc chia nhỏ cơsở hoạt động sang các nước khác.
Theo Frederic Neumann, đồng chủ trì nhóm nghiên cứu kinh tế của HSBC tạiHong Kong, thì mối nguy lớn nhất là các ngân hàng trung ương khu vực phản ứng lạibiến động trên thị trường tài chính bằng cách trì hoãn tăng lãi suất - việc làmcần thiết để khống chế lạm phát và đối phó với chính sách nới lỏng tiền tệ củaphương Tây.
Ông nói: “Thảm họa Nhật Bản, cho dù khá lớn, sẽ không đẩy lùi quátrình tăng trưởng của châu Á hoặc tạo ra xu hướng giảm phát cần thiết để đẩy luisức nóng giá cả tăng nhanh tại đây. Các nhà hoạch định chính sách giờ đây sẽ rấtmuốn tạm dừng kế hoạch thắt chặt tiền tệ. Nhưng làm vậy sẽ là sai lầm. Lạm phátsẽ vẫn là mối lo lớn nhất đối với các nền kinh tế mới nổi ở châu Á.”/.