Sáng 3/5, tại Hà Nội, Viện Kinh tế Việt Nam phối hợp với Viện Konrad Adenauer (Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức hội thảo "Tái cấu trúc đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước" nhằm lấy ý kiến để đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại và hạn chế tập trung đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế.
Cản trở mục tiêu tăng trưởng
Phó giáo sư-tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, sau nhiều năm đạt được thành tích tăng trưởng được coi là khá ngoạn mục, những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với yêu cầu gay gắt phải "chỉnh sửa căn bản cấu trúc" để chuyển sang một giai đoạn tăng trưởng mới về chất.
Quả đúng như vậy. Đề cập đến vấn đề này, các chuyên gia đều cho rằng quá trình phát triển của nền kinh tế trong thời gian qua đã tích tụ những tồn tại đang cản trở mục tiêu tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Đó là tình trạng lạm phát cao, mất cân đối vĩ mô ngày càng lớn, chậm thay đổi về năng lực công nghệ và năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh thấp xét từ góc độ quốc gia và doanh nghiệp…
Với mô hình tăng trưởng cũ, chủ yếu dựa vào sự gia tăng đầu tư vốn nhưng lại dàn trải, thiếu khoa học, chồng chéo và theo cơ chế nặng về xin-cho đã để lại hậu quả nặng nề, như môi trường đầu tư-kinh doanh không lành mạnh; xu hướng đầu cơ, ăn xổi; sự nảy sinh lãng phí và tham nhũng… Từ đó, nền kinh tế ngày càng rơi sâu vào vòng xoáy “đình trệ-lạm phát cao,” bị đe dọa bởi nguy cơ khó thoát ra và nếu tiếp diễn sẽ phải đối phó với tình trạng ảm đạm kéo dài.
Có thể nói "sức khỏe" của nền kinh tế thể hiện qua hai biến số đặc trưng là "sức khỏe" doanh nghiệp bị hao tổn nặng nề, thu nhập thực tế của dân cư và sức mua thị trường giảm mạnh do phải đương đầu với tình trạng lạm phát và lãi suất cao kéo dài. Đó là chưa kể đến những căng thẳng xã hội phát sinh từ những bất cập khác, điển hình nhất là vấn đề đất đai, kéo theo sự suy giảm mạnh lòng tin thị trường và xã hội.
Theo chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh, thực tế tỷ lệ đầu tư toàn xã hội so với GDP (giá hiện hành) ngày càng tăng lên trong khi hiệu quả ngày càng giảm. Đây là một nghịch lý, gây lãng phí nguồn lực rất lớn và nghiêm trọng. Cụ thể, giai đoạn 1991-1995 tỷ lệ này là 28,2 và GDP đạt mức tăng trưởng bình quân 8,21%/năm; giai đoạn 1996-2000 các mức tương ứng lần lượt là 33,3 và 7%; giai đoạn 2001-2005 là 39,1 và 7,49%; đến giai đoạn 2006-2010 là 42,7 và 6,9%.
Như vậy, mặc dù mức đầu tư luôn tăng lên nhưng tốc độ tăng trưởng GDP càng giảm theo thời gian, như một biểu hiện “phú quý giật lùi.” Không những thế, đầu tư công ở Việt Nam lại tập trung vào kinh tế rất cao trong khi tỷ lệ vào các lĩnh vực xã hội thấp và có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây.
Một thực tế đáng ngại nữa là tỷ lệ thất thoát trong các dự án đầu tư công khá cao nên ảnh hưởng đến hiệu quả đồng vốn và chất lượng sử dụng công trình.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, điều đặc biệt đáng lo ngại hiện nay là quyết định chấp thuận đầu tư thường được dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và khả năng huy động vốn trong khi các tiêu chuẩn về hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội chưa được quy định chặt chẽ và chưa có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý.
Tình trạng dàn trải, tư duy cục bộ địa phương đã diễn ra và để lại hậu quả lãng phí, rất khó khắc phục. Cả nước đang đầu tư 20 cảng biển quốc tế nhưng đến nay lại chưa hề có cảng biển nước sâu nào có tầm cỡ quốc tế hay đủ tầm vóc, ảnh hưởng ở khu vực để từ đó tạo sức bật phát triển kinh tế cho địa phương sở tại và vùng địa lý phụ cận.
Tạo bước thay đổi về chất
Từ thực trạng trên, rõ ràng Việt Nam cần xác định và quyết tâm thực hiện mục tiêu tái cơ cấu đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo bước thay đổi về chất đối với nền kinh tế. Các chuyên gia nhấn mạnh, việc tái cơ cấu đầu tư công phải gắn liền với cải cách luật pháp và thể chế để quản lý đầu tư theo hướng công khai, minh bạch, đúng quy hoạch, kế hoạch.
Quá trình triển khai đầu tư phải đặt dưới chế độ trách nhiệm cá nhân trong suốt các công đoạn, từ thiết kế, xét duyệt, nghiệm thu…và dưới sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử, tổ chức quần chúng, từng công dân cũng như báo chí, công luận.
Bên cạnh đó, cần chuyển mạnh từ cơ chế “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” kết hợp cải cách hành chính và phân vai rõ ràng về quyền lợi-trách nhiệm. Đại diện khu vực tư nhân cũng như chuyên gia quốc tế cũng khuyến nghị Nhà nước nên áp dụng rộng rãi với tốc độ nhanh các dự án theo mô hình hợp tác công-tư để tăng cường sự tranh thủ và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai khu vực này về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực.
Ông Vũ Tuấn Anh, Viện Kinh tế Việt Nam đề xuất, nhằm tái cơ cấu đầu tư công, Nhà nước cần giảm dần tỷ trọng tích lũy trong GDP; giữ ổn định gánh nặng thuế, giảm tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách. Nhờ đó, tạo môi trường thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế dân doanh vượt qua những khó khăn trước mắt do tác động của khủng hoảng kinh tế, đồng thời tự tích lũy nhiều hơn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh; thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách theo hướng giảm bớt chức năng "nhà nước kinh doanh", đồng thời tăng cường chức năng "nhà nước phúc lợi."
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tập trung đầu tư công cho nền kinh tế vào một số lĩnh vực trọng điểm, có tính đột phá và lan tỏa nhằm nhanh chóng đưa vào sử dụng.
Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước cần được thu hẹp về số lượng nhưng nâng cao chất lượng để phát triển theo hướng tinh hơn, bảo đảm vai trò nòng cốt đối với một số lĩnh vực tối quan trọng của quốc kế dân sinh như năng lượng, cung cấp dịch vụ công, bảo vệ môi trường, tham gia vào an ninh quốc phòng, giao thông…
Đặc biệt, Chính phủ, các bộ, ngành sẽ nâng cao hiệu quả quản lý, kiên quyết giảm thiểu, tiến tới kiềm chế tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả trong các doanh nghiệp nhà nước. Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo việc tái cấu trúc doanh nghiệp theo một số “kênh” như sắp xếp lại về ngành nghề của doanh nghiệp, cơ cấu lại về vốn, sáp nhập, nhất là đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Việc tái cấu trúc doanh nghiệp cũng là cơ sở tốt để tạo ra môi trường bình đẳng đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau, từ đó thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá thành hợp lý. Trong tương lai, sẽ tiến tới xóa bỏ tình trạng độc quyền DN và ủng hộ việc thành lập tập đoàn kinh tế đa sở hữu.
Bản thân mỗi doanh nghiệp cũng được khuyến cáo cần từng bước thay đổi cung cách quản lý, tăng cường chất lượng công tác quản trị nội bộ, tự giác minh bạch hóa thông tin và thực hiện kiểm toán độc lập, đầu tư thỏa đáng cho phát triển thương hiệu và công nghệ mới. Có như vậy việc tái cấu trúc nền kinh tế mới phát huy hiệu quả./.
Cản trở mục tiêu tăng trưởng
Phó giáo sư-tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, sau nhiều năm đạt được thành tích tăng trưởng được coi là khá ngoạn mục, những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với yêu cầu gay gắt phải "chỉnh sửa căn bản cấu trúc" để chuyển sang một giai đoạn tăng trưởng mới về chất.
Quả đúng như vậy. Đề cập đến vấn đề này, các chuyên gia đều cho rằng quá trình phát triển của nền kinh tế trong thời gian qua đã tích tụ những tồn tại đang cản trở mục tiêu tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Đó là tình trạng lạm phát cao, mất cân đối vĩ mô ngày càng lớn, chậm thay đổi về năng lực công nghệ và năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh thấp xét từ góc độ quốc gia và doanh nghiệp…
Với mô hình tăng trưởng cũ, chủ yếu dựa vào sự gia tăng đầu tư vốn nhưng lại dàn trải, thiếu khoa học, chồng chéo và theo cơ chế nặng về xin-cho đã để lại hậu quả nặng nề, như môi trường đầu tư-kinh doanh không lành mạnh; xu hướng đầu cơ, ăn xổi; sự nảy sinh lãng phí và tham nhũng… Từ đó, nền kinh tế ngày càng rơi sâu vào vòng xoáy “đình trệ-lạm phát cao,” bị đe dọa bởi nguy cơ khó thoát ra và nếu tiếp diễn sẽ phải đối phó với tình trạng ảm đạm kéo dài.
Có thể nói "sức khỏe" của nền kinh tế thể hiện qua hai biến số đặc trưng là "sức khỏe" doanh nghiệp bị hao tổn nặng nề, thu nhập thực tế của dân cư và sức mua thị trường giảm mạnh do phải đương đầu với tình trạng lạm phát và lãi suất cao kéo dài. Đó là chưa kể đến những căng thẳng xã hội phát sinh từ những bất cập khác, điển hình nhất là vấn đề đất đai, kéo theo sự suy giảm mạnh lòng tin thị trường và xã hội.
Theo chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh, thực tế tỷ lệ đầu tư toàn xã hội so với GDP (giá hiện hành) ngày càng tăng lên trong khi hiệu quả ngày càng giảm. Đây là một nghịch lý, gây lãng phí nguồn lực rất lớn và nghiêm trọng. Cụ thể, giai đoạn 1991-1995 tỷ lệ này là 28,2 và GDP đạt mức tăng trưởng bình quân 8,21%/năm; giai đoạn 1996-2000 các mức tương ứng lần lượt là 33,3 và 7%; giai đoạn 2001-2005 là 39,1 và 7,49%; đến giai đoạn 2006-2010 là 42,7 và 6,9%.
Như vậy, mặc dù mức đầu tư luôn tăng lên nhưng tốc độ tăng trưởng GDP càng giảm theo thời gian, như một biểu hiện “phú quý giật lùi.” Không những thế, đầu tư công ở Việt Nam lại tập trung vào kinh tế rất cao trong khi tỷ lệ vào các lĩnh vực xã hội thấp và có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây.
Một thực tế đáng ngại nữa là tỷ lệ thất thoát trong các dự án đầu tư công khá cao nên ảnh hưởng đến hiệu quả đồng vốn và chất lượng sử dụng công trình.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, điều đặc biệt đáng lo ngại hiện nay là quyết định chấp thuận đầu tư thường được dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và khả năng huy động vốn trong khi các tiêu chuẩn về hiệu quả đầu tư kinh tế-xã hội chưa được quy định chặt chẽ và chưa có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý.
Tình trạng dàn trải, tư duy cục bộ địa phương đã diễn ra và để lại hậu quả lãng phí, rất khó khắc phục. Cả nước đang đầu tư 20 cảng biển quốc tế nhưng đến nay lại chưa hề có cảng biển nước sâu nào có tầm cỡ quốc tế hay đủ tầm vóc, ảnh hưởng ở khu vực để từ đó tạo sức bật phát triển kinh tế cho địa phương sở tại và vùng địa lý phụ cận.
Tạo bước thay đổi về chất
Từ thực trạng trên, rõ ràng Việt Nam cần xác định và quyết tâm thực hiện mục tiêu tái cơ cấu đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo bước thay đổi về chất đối với nền kinh tế. Các chuyên gia nhấn mạnh, việc tái cơ cấu đầu tư công phải gắn liền với cải cách luật pháp và thể chế để quản lý đầu tư theo hướng công khai, minh bạch, đúng quy hoạch, kế hoạch.
Quá trình triển khai đầu tư phải đặt dưới chế độ trách nhiệm cá nhân trong suốt các công đoạn, từ thiết kế, xét duyệt, nghiệm thu…và dưới sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử, tổ chức quần chúng, từng công dân cũng như báo chí, công luận.
Bên cạnh đó, cần chuyển mạnh từ cơ chế “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” kết hợp cải cách hành chính và phân vai rõ ràng về quyền lợi-trách nhiệm. Đại diện khu vực tư nhân cũng như chuyên gia quốc tế cũng khuyến nghị Nhà nước nên áp dụng rộng rãi với tốc độ nhanh các dự án theo mô hình hợp tác công-tư để tăng cường sự tranh thủ và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai khu vực này về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý và sử dụng nguồn nhân lực.
Ông Vũ Tuấn Anh, Viện Kinh tế Việt Nam đề xuất, nhằm tái cơ cấu đầu tư công, Nhà nước cần giảm dần tỷ trọng tích lũy trong GDP; giữ ổn định gánh nặng thuế, giảm tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách. Nhờ đó, tạo môi trường thuận lợi hơn cho khu vực kinh tế dân doanh vượt qua những khó khăn trước mắt do tác động của khủng hoảng kinh tế, đồng thời tự tích lũy nhiều hơn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh; thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách theo hướng giảm bớt chức năng "nhà nước kinh doanh", đồng thời tăng cường chức năng "nhà nước phúc lợi."
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tập trung đầu tư công cho nền kinh tế vào một số lĩnh vực trọng điểm, có tính đột phá và lan tỏa nhằm nhanh chóng đưa vào sử dụng.
Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước cần được thu hẹp về số lượng nhưng nâng cao chất lượng để phát triển theo hướng tinh hơn, bảo đảm vai trò nòng cốt đối với một số lĩnh vực tối quan trọng của quốc kế dân sinh như năng lượng, cung cấp dịch vụ công, bảo vệ môi trường, tham gia vào an ninh quốc phòng, giao thông…
Đặc biệt, Chính phủ, các bộ, ngành sẽ nâng cao hiệu quả quản lý, kiên quyết giảm thiểu, tiến tới kiềm chế tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả trong các doanh nghiệp nhà nước. Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo việc tái cấu trúc doanh nghiệp theo một số “kênh” như sắp xếp lại về ngành nghề của doanh nghiệp, cơ cấu lại về vốn, sáp nhập, nhất là đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Việc tái cấu trúc doanh nghiệp cũng là cơ sở tốt để tạo ra môi trường bình đẳng đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau, từ đó thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá thành hợp lý. Trong tương lai, sẽ tiến tới xóa bỏ tình trạng độc quyền DN và ủng hộ việc thành lập tập đoàn kinh tế đa sở hữu.
Bản thân mỗi doanh nghiệp cũng được khuyến cáo cần từng bước thay đổi cung cách quản lý, tăng cường chất lượng công tác quản trị nội bộ, tự giác minh bạch hóa thông tin và thực hiện kiểm toán độc lập, đầu tư thỏa đáng cho phát triển thương hiệu và công nghệ mới. Có như vậy việc tái cấu trúc nền kinh tế mới phát huy hiệu quả./.
Thúy Hiền (TTXVN)