Những nghị quyết chiến lược mở đường cho Việt Nam bứt phá giai đoạn mới

Với hàng loạt nghị quyết chiến lược ban hành trong năm 2025, Việt Nam xác lập rõ động lực phát triển mới, từ KH-CN, hội nhập quốc tế đến kinh tế tư nhân, tạo hành lang pháp lý cho bứt phá dài hạn.
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã tạo bước đột phá trong đầu tư phát triển hạ tầng chuyển đổi số. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)

Năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết chiến lược trong các lĩnh vực then chốt, xác định những động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước với người dân là trung tâm, là chủ thể; khoa học công nghệ là đột phá quan trọng hàng đầu; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt; kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt.

Với tinh thần nhất quán từ ý chí chính trị của Đảng tới khuôn khổ pháp lý và hành động quản lý của Nhà nước, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã thông qua 51 luật và 8 nghị quyết quy phạm pháp luật, chiếm gần 30% tổng số luật, nghị quyết quy phạm pháp luật của cả nhiệm kỳ.

Chính phủ ban hành nhiều chương trình hành động và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tạo hành lang pháp lý để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Đây là 1 trong 10 sự kiện nổi bật của Việt Nam năm 2025 do TTXVN bình chọn.

Lịch sử phát triển của mỗi quốc gia đều có những thời điểm bản lề, khi tư duy chiến lược được định hình rõ ràng và quyết tâm chính trị được thể hiện ở mức cao nhất. Với Việt Nam, năm 2025 chính là một thời điểm như vậy.

Việc Bộ Chính trị ban hành liên tiếp 7 Nghị quyết chiến lược từ cuối năm 2024 đến tháng 9 năm nay, không chỉ cho thấy tầm nhìn dài hạn, mà còn phản ánh yêu cầu cấp bách của thực tiễn phát triển trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, phức tạp và cạnh tranh gay gắt.

Các Nghị quyết ấy không tồn tại rời rạc mà được Trung ương thiết kế một cách thống nhất, bổ trợ lẫn nhau, cùng hướng tới mục tiêu chung là khơi thông nguồn lực, giải phóng sức sản xuất, nâng cao chất lượng tăng trưởng và đặt con người ở vị trí trung tâm của phát triển.

Nổi bật trước hết là Nghị quyết số 57-NQ/TW, xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng hàng đầu. Đây không chỉ là lựa chọn chiến lược mà còn là sự khẳng định dứt khoát: Việt Nam muốn bứt phá thì phải dựa vào tri thức, công nghệ và sáng tạo.

Bối cảnh hiện nay càng cho thấy, nếu không thực hiện kịp thời chúng ta sẽ có nguy cơ tụt hậu. Bởi nếu không có dữ liệu, không số hóa dữ liệu thì không thể hình thành kinh tế số, xã hội số, công dân số…

Trung ương cũng nêu rõ, mục tiêu kinh tế số phải chiếm tối thiểu 30% GDP vào năm 2030, tiến tới 50% vào năm 2045. Đây chính là quyết tâm chuyển đổi mô hình phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, từ dựa vào tài nguyên sang dựa vào trí tuệ.

Khoa học và công nghệ không còn là công cụ hỗ trợ mà phải trở thành nền tảng phát triển và lực đẩy chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng các trưởng đoàn tham dự SCO 2025 chụp ảnh chung. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Song song với đó, Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới đã mở ra một không gian phát triển rộng lớn hơn cho đất nước.

Nghị quyết đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo về hội nhập quốc tế, trong đó nhấn mạnh cùng với việc tăng cường quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên và phải phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, kết hợp với quốc phòng-an ninh trong việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hội nhập quốc tế cũng tranh thủ tối đa các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, phát triển nhanh và bền vững; tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nâng cao vai trò, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam.

Nếu như chúng ta xác định khoa học-công nghệ là động lực, hội nhập là không gian, thì thể chế chính là "đường băng" cho phát triển. Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá."

Một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, minh bạch, khả thi và hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, bảo đảm cơ sở pháp lý chính là sự mở đường cho kiến tạo phát triển. Đây cũng chính là sự khơi dậy tinh thần sáng tạo và đầu tư của toàn xã hội, là nền móng để quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả.

Trên nền tảng đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân lại tạo ra cú hích thể chế mạnh mẽ. Việc khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế cho thấy sự chuyển biến căn bản trong tư duy phát triển.

Từ "thừa nhận" sang "bảo vệ và thúc đẩy," từ "bổ trợ" sang "dẫn dắt," khu vực tư nhân được kỳ vọng trở thành trụ cột thực sự của nền kinh tế độc lập, tự chủ, có năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Và như Phó Giáo sư-Tiến sỹ Trần Hoàng Ngân, đại biểu Quốc hội Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh, nhận định: "Kinh tế tư nhân vốn đã là một động lực quan trọng của nền kinh tế quốc gia. Nhưng nghị quyết lần này xác lập mục tiêu đến năm 2030, khu vực này phải trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Đó là bước chuyển mang tính chiến lược."

Công nhân nhà máy nhựa Đại Đồng Tiến dán nhãn, đóng gói bao bì sản phẩm. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Phát triển nhanh nhưng không thể thiếu bền vững. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chiến lược phát triển. Trong chiến lược ấy, giáo dục được xác định là chìa khóa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, còn y tế là nền tảng của một xã hội phát triển lành mạnh, nhân văn.

Và Nghị quyết số 71-NQ/TW về giáo dục và đào tạo cùng Nghị quyết số 72-NQ/TW về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân chính là hướng tới con người. Còn Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đặt nền tảng cho tăng trưởng dài hạn, gắn với chuyển dịch xanh và cam kết giảm phát thải.

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đã thông qua 51 luật và 8 nghị quyết quy phạm pháp luật, chiếm gần 30% tổng số luật, nghị quyết quy phạm pháp luật của cả nhiệm kỳ. Chính phủ ban hành nhiều chương trình hành động và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tạo hành lang pháp lý để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Một trong những văn bản quan trọng nhất trong số này là Nghị quyết về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh định hướng phát triển không gian quốc gia trong bối cảnh mới, bảo đảm đồng bộ với chiến lược phát triển đất nước giai đoạn đến 2050.

Có thể thấy, các luật, nghị quyết quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua tập trung vào hoàn thiện thể chế phát triển, quyết định các vấn đề tài chính-ngân sách, đầu tư công, chương trình mục tiêu quốc gia, cũng như tháo gỡ những điểm nghẽn pháp luật đang cản trở sản xuất, kinh doanh và đổi mới sáng tạo.

Đây là bước nối tiếp mang tính quyết định, chuyển hóa chủ trương của Đảng thành quyết sách cụ thể, khả thi, có hiệu lực thi hành trong đời sống.

Điểm nổi bật của các văn bản luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua là tinh thần hành động rõ ràng, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo. Việc ưu tiên nguồn lực cho khoa học-công nghệ, chuyển đổi số, hạ tầng chiến lược, giáo dục-đào tạo, y tế và an sinh xã hội cho thấy sự thống nhất cao giữa tư duy chiến lược và lựa chọn chính sách. Đồng thời, Quốc hội tăng cường cơ chế giám sát, yêu cầu rõ trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương trong tổ chức thực hiện, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương và tính minh bạch.

Tinh thần nhất quán từ ý chí chính trị của Đảng tới khuôn khổ pháp lý và hành động quản lý của Nhà nước đã tạo nên một chuỗi chủ trương, chính sách xuyên suốt, từ định hướng đến hành động. Đây chính là nền tảng quan trọng để các nghị quyết chiến lược sớm đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.

Học sinh ở Đồng Nai thực hiện bài tập nhóm với nhiều cách làm đổi mới, sáng tạo. (Ảnh: Lê Xuân/TTXVN)

Những nghị quyết quan trọng này chính là bản thiết kế chiến lược cho tương lai đất nước. Vấn đề còn lại là biến thiết kế ấy thành hiện thực sống động. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh, phải chuyển nhanh từ "ban hành nghị quyết" sang "quản trị thực thi," lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo.

Mỗi nghị quyết chỉ thực sự có ý nghĩa khi được cụ thể hóa thành chương trình hành động rõ ràng, có nguồn lực, có lộ trình, có giám sát và có trách nhiệm giải trình.

Chặng đường tới năm 2045 không còn xa, phát triển mạnh mẽ và bền vững là không thể chậm trễ, càng không thể chỉ dừng ở chủ trương. Với quyết tâm chính trị cao, sự đồng lòng của toàn dân tộc và tinh thần hành động quyết liệt, Việt Nam bước vào năm 2026 với đủ cơ sở để tin tưởng vào một chặng đường phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục