"Thiếu vốn là vấn đề nghiêm trọng nhất của DN"

Theo báo cáo thì 81% doanh nghiệp cho biết thiếu vốn hay khó khăn trong tiếp cận tài chính được coi là vấn đề nghiêm trọng nhất.
Các doanhnghiệp đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện các chiến lược đổi mới vớimục đích tự "nâng cấp" mình.

Đây là thông tin được công bố tại Báo cáo nghiên cứu “Trình độ công nghệ và nănglực cạnh tranh của doanh nghiệp” do Viện Nghiên cứu, Quản lý kinh tế Trung ương(CIEM) phối hợp với Nhóm nghiên cứu kinh tế (DERG), Đại học Copenhagen, ĐanMạch thực hiện.

Lựa chọn chiến lược đổi mới

Cuộc khảo sát lần này đã thu hút được sự tham gia của khoảng 8.000 doanhnghiệp ngoài nhà nước đang hoạt động trong lĩnh vực chế biến, chế tạo.

Kết quảkhảo sát cho thấy cải tiến chất lượng sản phẩm chính là chiến lược đổi mới phổbiến nhất được hơn 80% số doanh nghiệp tham gia khảo sát lựa chọn.

Tiếp đến là vấn đề mở rộng và tăng cường đa dạng hóa sản phẩm đã được trên50% đánh giá là quan trọng và trên 30% doanh nghiệp cho rằng việc cải tiến quytrình thực hiện cũng là vấn đề cần được quan tâm.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trả lời tập trung tương đối ít vào mở rộnghoạt động sang các lĩnh vực mới, chỉ có 2% doanh nghiệp xem xét việc chuyển đổilĩnh vực hoạt động như là một phần của chiến lược đổi mới.

Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan nhìn nhận con số 2% lựa chọnchuyển đổi lĩnh vực hoạt động mới cũng đã phần nào phản ánh thực tế hiện nay.

Chính những hậu quả của việc đa dạng hóa ngành nghề mà các tập đoàn kinh tế nhànước thực hiện thời gian qua phần nào ảnh hưởng tới quyết định của doanh nghiệptrong việc lựa chọn giữa tập trung, chuyên môn hóa với đa dạng hóa ngành nghề.

Ông Simon McCoy, thành viên DERG cho rằng doanh nghiệp có thể hưởng lợitừ công nghệ sản xuất, chế biến mới.

Việc áp dụng công nghệ mới cho phép doanhnghiệp nâng cao năng lực và cải tiến các sản phẩm của mình. Hơn nữa, công nghệmới thường đóng góp quan trọng trong sự phát triển của sản phẩm mới cũng như cảitiến chất lượng sản phẩm hiện có.

Về các vấn đề khó khăn mà doanh nghiệp đang đối mặt, theo kết quả khảo sátcó tới 81% doanh nghiệp cho biết đang gặp phải một số hạn chế hoặc trở ngại khithực hiện chiến lược nâng cấp doanh nghiệp, trong đó thiếu vốn hay khó khăntrong tiếp cận tài chính được coi là vấn đề nghiêm trọng nhất.

Tiếp theo lànhững lo ngại về mức độ cạnh tranh, hạn chế về kỹ năng như thiếu lao động có taynghề, bí quyết kỹ thuật, thiếu cơ sở hạ tầng cơ bản...

Các doanh nghiệp đều cho rằng, cạnh tranh trong ngành chế biến, chế tạo làkhốc liệt, thể hiện qua tỷ lệ thành lập và phá sản cao. Kết quả khảo sát chothấy, có hơn 30% doanh nghiệp có trên 10 đối thủ cạnh tranh về sản phẩm, bất kểhọ đang tập trung vào thị trường trong nước hay ngoài nước.

Khoảng 35% doanh nghiệp cho rằng giá của sản phẩm là hình thức quan trọngnhất trong cạnh tranh. Cụ thể, các doanh nghiệp xuất bản và in ấn, cao su và cácsản phẩm nhựa, kim loại cơ bản có nhiều khả năng phải đối mặt với cạnh tranh vềgiá.

Doanh nghiệp FDI giúp lan tỏa công nghệ?

Báo cáo nghiên cứu phân tích tác động lan tỏa về công nghệ do cạnhtranh trong cùng một ngành công nghiệp được coi là một tác động quan trọng cóthể xảy ra giữa các doanh nghiệp trong nước với các đối thủ cạnh tranh nướcngoài và với các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở địa phương.

Theo đó, hiệu ứng lan tỏa công nghệ có thể xảy ra khi các doanh nghiệp địaphương nâng cao hiệu quả bằng cách sao chép công nghệ của các đối thủ cạnh tranhnước ngoài hoặc thông qua quan sát hay bằng cách thuê người lao động do cácdoanh nghiệp/đối thủ cạnh tranh nước ngoài đào tạo.

Tuy nhiên, ông Lê Xuân Bá, Viện trưởng CIEM, cho rằng việc dịch chuyểnlao động cũng có thể có những ảnh hưởng tiêu cực nếu các doanh nghiệp FDI địaphương thu hút được người lao động tốt từ các đối thủ cạnh tranh của họ là doanhnghiệp trong nước.

Ngoài ra, chính các yêu cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm và giao hàngđúng hẹn được đưa ra bởi các doanh nghiệp FDI đã gây áp lực cho doanh nghiệptrong nước nâng cấp việc quản lý sản xuất, công nghệ của mình.

Kết quả khảo sát ghi nhận việc chuyển giao công nghệ có nhiều khả năng xảyra khi thỏa thuận hợp đồng được bảo đảm giữa doanh nghiệp và khách hàng.

Tuynhiên, chỉ có dưới 10% các doanh nghiệp tham gia một cách bình thường vào cáchợp đồng dài hạn (trên 3 năm) với khách hàng, trong khi đó có tới 93,5% - chiếmđại đa số các hợp đồng hiện tại có thời hạn dưới một năm.

Trong đó, chỉ có 7,5% số hợp đồng của các doanh nghiệp bao gồm chuyển giaocông nghệ trực tiếp từ khách hàng cho doanh nghiệp.

Điều đáng chú ý là trong cáchợp đồng liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI có nhiều yếutố về chuyển giao công nghệ từ phía khách hàng hơn các doanh nghiệp tư nhântrong nước.

Hơn nữa, việc chuyển giao công nghệ trực tiếp từ khách hàng đến doanhnghiệp xảy ra nhiều hơn tại các lĩnh vực giấy và sản phẩm về giấy, máy móc vàthiết bị, thiết bị vô tuyến và truyền thông.

Theo chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan, trước đây chúng ta kỳ vọngnhiều vào khối doanh nghiệp FDI để có được sức lan tỏa của công nghệ. Tuy nhiên,qua thời gian kiểm chứng và dưới góc độ doanh nghiệp, có thể thấy, doanh nghiệpViệt Nam chưa học hỏi được nhiều từ các doanh nghiệp nước ngoài.

Đây là bài học giúp chúng ta có những chính sách khuyến khích thu đầu tưphù hợp nhằm đạt được sự lan tỏa tốt về công nghệ./.

Quang Toàn (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục