Hội nghị có sự tham gia của các nhà khoa học đến từ Hội Ghép tạng thế giới, cácchuyên gia đến từ Mỹ, Australia, New Zealand và Croatia cùng các nhà khoa học,các chuyên gia đầu ngành trong nước.
Ghép tạng đã trở thành một bộ phận lớn của phương pháp điều trị thay thế hiệnnay. Việc hiến, lấy, ghép và điều trị sau ghép rất phức tạp, có liên quan khôngnhững trên lĩnh vực khoa học, y học mà còn liên quan đến xã hội học và đạo đứctrong y học. Do vậy, Hội nghị tập trung thảo luận về những tiến bộ về miễn dịchghép tạng, chia sẻ kinh nghiệm thuốc ức chế miễn dịch, vấn đề chăm sóc và điềutrị sau ghép tạng, đặc biệt là ghép thận, khía cạnh xã hội, nhân đạo và đạo đứctrong ghép tạng.
Tại Việt Nam, ca ghép tạng lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1992 tại Viện 103(Hà Nội). Trong ba năm từ 2010-2013, cả nước đã ghép được 10 ca tim, 12 ca ganvà hơn 400 ca thận. Riêng số thận ghép của ba bệnh viện Chợ Rẫy, Việt Đức vàViện 103 trong ba năm này là 392 ca, nhiều hơn số thận ghép trong cả nước trong18 năm trước.
Đặc biệt ở bệnh viện Việt Đức có thời điểm trong bốn tuần đã tiến hành lấy đatạng của ba bệnh nhân chết não để ghép cho 6 ca thận, 3 ca gan và 2 ca tim. Hầuhết thời gian phẫu thuật của mỗi loại ghép, thời gian sống thêm sau ghép 1 nămvà 5 năm tương đương như các ca ghép trên thế giới và không có các tai biến vàbiến chứng lớn trong và sau mổ.
Phần lớn các bệnh nhân sau ghép đã trở về với cuộc sống bình thường. Ca ghépthận sống lâu nhất đến nay đã bước sang năm thứ 21 và ca ghép gan đầu tiên bướcsang năm thứ 10.
Theo giáo sư Phạm Gia Khánh, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học công nghệ y-dượccấp Nhà nước, ghép tạng hiện nay được xem là biện pháp duy nhất cứu sống bệnhnhân bị bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối và nâng cao chất lượng cuộc sống ngườibệnh.
Nhu cầu ghép tạng ở Việt Nam hiện nay là khá cao. Việt Nam đã có Luật và các vănbản dưới Luật liên quan đến ghép tạng, đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản ởnước ngoài và đã ít nhiều có thực tế qua các qua ghép trong nước vừa qua, hạtầng cơ sở ở nhiều bệnh viện đã được nâng cấp đáp ứng được nhu cầu khắt khe củaghép tạng.
Tuy nhiên, cản trở lớn nhất của ghép tạng tại Việt Nam hiện nay là thiếu ngườicho tạng, đặc biệt là từ người cho chết não. Nguyên nhân là do ảnh hưởng của tâmlý, tôn giáo, tín ngưỡng trong nhân dân.
Ngoài ra, chi phí ghép tạng của Việt Nam tuy ở mức thấp nhất so với các nướctrên thế giới nhưng so với thu nhập của người dân thì vẫn là mức chi phí quácao./.