Theo kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí Clinical Journal of the American Society Nephrology số ra tháng 3, các nhà khoa học vừa phát hiện ra rằng trầm cảm có thể làm tăng nguy cơ bị hỏng thận trong tương lai.
Trong thí nghiệm của mình, tiến sỹ Willem Kop thuộc Đại học Tilburg, Hà Lan, và các đồng nghiệp đã nghiên cứu 5.785 người ở bốn quận trên toàn nước Mỹ, trong khoảng thời gian 10 năm. Những người tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 65 trở lên và chưa trải qua quá trình lọc máu.
Các nhà khoa học đã hoàn thành các bảng câu hỏi điều tra đánh giá về các dấu hiệu trầm cảm và tiến hành các biện pháp y tế khác, bao gồm xét nghiệm đo chỉ số lọc cầu thận (eGFR) và các nhân tố nguy cơ đối với các căn bệnh tim, thận. Sau đó, họ xem xét liệu trầm cảm có phải dấu hiệu cho biết bị mắc bệnh thận hoặc các căn bệnh khác có liên quan đến thận.
Kết quả phân tích cho thấy trầm cảm đi đôi với sự hiện diện của căn bệnh thận mãn tính (CKD), và tỷ lệ bị mắc chứng trầm cảm ở những người bị bệnh thận cao hơn 20% so với những người không bị.
Nghiên cứu còn cho thấy trầm cảm có thể báo trước sự suy thoái nhanh chóng sau đó đối với các chức năng của thận, sự bắt đầu của bệnh thận ở giai đoạn cuối. Khi các nhà khoa học hiệu chỉnh các tác động lâu dài của các biện pháp y tế khác, giá trị dự đoán về ảnh hưởng của chứng trầm cảm đối với bệnh thận vẫn rất cao.
Tiến sỹ Kop cho biết các nhà khoa học đang phân tích các nhân tố có thể giải thích mối liên hệ giữa chứng trầm cảm với các nguy cơ về bệnh thận để làm rõ hơn về vấn đề này.
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp bao gồm nhiều triệu chứng, nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc và người bệnh không còn quan tâm hay thích thú đối với tất cả những gì xảy ra chung quanh hoặc đối với bản thân mình. Người bệnh luôn cảm thấy mệt mỏi, mất hy vọng vào tương lai, nghĩ rằng thế giới chung quanh dường như lúc nào cũng u ám.
Rối loạn này có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào nhưng thường gặp nhất là ở lứa tuổi từ 24 đến 44. Hiện nay cứ 1 trong 4 nữ hay 1 trong 10 nam đã từng bị trầm cảm ít nhất một lần trong đời. Nữ dễ bị trầm cảm gấp đôi so với nam. Đây loại bệnh nếu được chữa trị sớm và đúng cách thì tỷ lệ bệnh ổn định khá cao (70-80%)./.
Trong thí nghiệm của mình, tiến sỹ Willem Kop thuộc Đại học Tilburg, Hà Lan, và các đồng nghiệp đã nghiên cứu 5.785 người ở bốn quận trên toàn nước Mỹ, trong khoảng thời gian 10 năm. Những người tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 65 trở lên và chưa trải qua quá trình lọc máu.
Các nhà khoa học đã hoàn thành các bảng câu hỏi điều tra đánh giá về các dấu hiệu trầm cảm và tiến hành các biện pháp y tế khác, bao gồm xét nghiệm đo chỉ số lọc cầu thận (eGFR) và các nhân tố nguy cơ đối với các căn bệnh tim, thận. Sau đó, họ xem xét liệu trầm cảm có phải dấu hiệu cho biết bị mắc bệnh thận hoặc các căn bệnh khác có liên quan đến thận.
Kết quả phân tích cho thấy trầm cảm đi đôi với sự hiện diện của căn bệnh thận mãn tính (CKD), và tỷ lệ bị mắc chứng trầm cảm ở những người bị bệnh thận cao hơn 20% so với những người không bị.
Nghiên cứu còn cho thấy trầm cảm có thể báo trước sự suy thoái nhanh chóng sau đó đối với các chức năng của thận, sự bắt đầu của bệnh thận ở giai đoạn cuối. Khi các nhà khoa học hiệu chỉnh các tác động lâu dài của các biện pháp y tế khác, giá trị dự đoán về ảnh hưởng của chứng trầm cảm đối với bệnh thận vẫn rất cao.
Tiến sỹ Kop cho biết các nhà khoa học đang phân tích các nhân tố có thể giải thích mối liên hệ giữa chứng trầm cảm với các nguy cơ về bệnh thận để làm rõ hơn về vấn đề này.
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp bao gồm nhiều triệu chứng, nhưng hay gặp nhất là sự buồn bã sâu sắc và người bệnh không còn quan tâm hay thích thú đối với tất cả những gì xảy ra chung quanh hoặc đối với bản thân mình. Người bệnh luôn cảm thấy mệt mỏi, mất hy vọng vào tương lai, nghĩ rằng thế giới chung quanh dường như lúc nào cũng u ám.
Rối loạn này có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào nhưng thường gặp nhất là ở lứa tuổi từ 24 đến 44. Hiện nay cứ 1 trong 4 nữ hay 1 trong 10 nam đã từng bị trầm cảm ít nhất một lần trong đời. Nữ dễ bị trầm cảm gấp đôi so với nam. Đây loại bệnh nếu được chữa trị sớm và đúng cách thì tỷ lệ bệnh ổn định khá cao (70-80%)./.
Khắc Hiếu/Washington (Vietnam+)