Chính việc chốt chặt trần lãi suất đã làm nảy sinh những bất cập ngay trong nội tại ngân hàng, khiến cho chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa khó song hành vì mục tiêu chung.
Đó là nhận định của các chuyên gia tại hội thảo về phối hợp chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong một môi trường kinh tế thế giới biến động được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tổ chức ngày 18/11, tại Hà Nội.
Theo tiến sĩ Tô Kim Ngọc, Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng, lãi suất là công cụ chủ chủ yếu của chính sách tiền tệ Việt Nam. Thế nhưng, bản thân việc điều hành lãi suất cũng đang có những mâu thuẫn chưa thể giải quyết. "Lãi suất danh nghĩa của Việt Nam vào loại cao nhất thế giới, trong khi lãi suất thực lại thấp nhất thế giới. Chính điều này lý giải tạo sao chênh lệch giữa tiết kiệm-đầu tư của Việt Nam luôn âm với mức lớn," tiến sĩ Ngọc nhận định.
Do chênh lệch này, lãi suất-mà bản chất là giá của đồng vốn đầu tư thường ở mức cao. Điều này càng có cơ hội bộc lộ khi chính sách tiền tệ phải thắt chặt, cung tiền ra nền kinh tế bị hạn chế để phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát hiện nay.
“Chỉ cần tiền tệ thắt chặt một chút thì lãi suất sẽ lên. Đây là điều đương nhiên. Vậy tại sao lại phải đặt trần lãi suất huy động? Điều này liệu có mâu thuẫn không?” tiến sĩ Ngọc đặt câu hỏi.
Lý giải về vấn đề này, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) - bà Nguyễn Thị Hồng cho biết trần lãi suất được đặt ra do yêu cầu giám sát và hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, gây mất an toàn hệ thống. “Hiện công cụ lãi suất chủ yếu được các nhà băng sử dụng để cạnh tranh vốn huy động. Do vậy, trong điều kiện thị trường bất ổn, nếu không quy định trần sẽ rất dễ dẫn tới chạy đua, gây mất an toàn hệ thống,” bà Hồng nói.
Tuy nhiên, bà Hồng cũng nhấn mạnh việc quy định mức trần 14% chỉ là giải pháp tạm thời. Khi thị trường tài chính và mặt bằng lãi suất ổn định, cơ quan quản lý có thể xem xét gỡ bỏ. “Tôi tin rằng sau những động thái quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước trong xử lý các ngân hàng vượt trần gần đây, một cuộc đua lãi suất sẽ không tái diễn. Bản thân người gửi tiền cũng sẽ có ý thức hơn trong việc lựa chọn ngân hàng gửi tiền và các ngân hàng sau sự việc này cũng sẽ nhìn nhận lại mình một cách nghiêm túc,” bà Hồng cho hay.
Trong khi đó, nhìn nhận ở một khía cạnh khác, bà Nguyễn Thị Kim Thanh-Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng nhận định: Hiện tại, chưa có bất kỳ một cơ quan chủ quản nào đứng ra nghiên cứu toàn diện để xây dựng một chính sách tài chính. Hơn nữa, cũng chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về sự tăng của lãi suất tác động về mặt định lượng như thế nào đối với nền kinh tế cũng như đầu tư... "Và khi đó, chưa thể nói đến chuyện phối hợp thế nào và mức độ phối hợp đến đâu giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ," bà Thanh nhận định.
Đồng tình với quan điểm của các chuyên gia trong nước, ông Tomoyuki Kimura-Giám đốc ADB tại Việt Nam nói: “Phối hợp chặt chẽ hơn chính sách tiền tệ với các chính sách vĩ mô khác là yếu tố quan trọng để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Khôi phục ổn định vĩ mô là ưu tiên trước mắt, song giải quyết tận gốc những nguyên nhân của lạm phát cao đòi hỏi phải nỗ lực nhiều hơn trong cải cách cơ cấu”.
Chính vì vậy, hội thảo đã được nghe các tham luận đến từ các cơ quan hoạch định chính sách và chuyên gia của Indonesia, Philippines chia sẻ những kinh nghiệm trong việc quản lý dòng vốn cũng như việc thực thi và phối kết hợp giữa hai chính sách tài chính-tiền tệ để thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế là kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng bền vững trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động như hiện nay.
Hội thảo cũng là một cơ hội tốt cho các đại biểu thảo luận và đánh giá vai trò và khuyến nghị về tiếp tục cải thiện chính sách tiền tệ và các cải cách cơ cầu rộng cần thiết để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam./.
Đó là nhận định của các chuyên gia tại hội thảo về phối hợp chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong một môi trường kinh tế thế giới biến động được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tổ chức ngày 18/11, tại Hà Nội.
Theo tiến sĩ Tô Kim Ngọc, Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng, lãi suất là công cụ chủ chủ yếu của chính sách tiền tệ Việt Nam. Thế nhưng, bản thân việc điều hành lãi suất cũng đang có những mâu thuẫn chưa thể giải quyết. "Lãi suất danh nghĩa của Việt Nam vào loại cao nhất thế giới, trong khi lãi suất thực lại thấp nhất thế giới. Chính điều này lý giải tạo sao chênh lệch giữa tiết kiệm-đầu tư của Việt Nam luôn âm với mức lớn," tiến sĩ Ngọc nhận định.
Do chênh lệch này, lãi suất-mà bản chất là giá của đồng vốn đầu tư thường ở mức cao. Điều này càng có cơ hội bộc lộ khi chính sách tiền tệ phải thắt chặt, cung tiền ra nền kinh tế bị hạn chế để phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát hiện nay.
“Chỉ cần tiền tệ thắt chặt một chút thì lãi suất sẽ lên. Đây là điều đương nhiên. Vậy tại sao lại phải đặt trần lãi suất huy động? Điều này liệu có mâu thuẫn không?” tiến sĩ Ngọc đặt câu hỏi.
Lý giải về vấn đề này, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) - bà Nguyễn Thị Hồng cho biết trần lãi suất được đặt ra do yêu cầu giám sát và hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, gây mất an toàn hệ thống. “Hiện công cụ lãi suất chủ yếu được các nhà băng sử dụng để cạnh tranh vốn huy động. Do vậy, trong điều kiện thị trường bất ổn, nếu không quy định trần sẽ rất dễ dẫn tới chạy đua, gây mất an toàn hệ thống,” bà Hồng nói.
Tuy nhiên, bà Hồng cũng nhấn mạnh việc quy định mức trần 14% chỉ là giải pháp tạm thời. Khi thị trường tài chính và mặt bằng lãi suất ổn định, cơ quan quản lý có thể xem xét gỡ bỏ. “Tôi tin rằng sau những động thái quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước trong xử lý các ngân hàng vượt trần gần đây, một cuộc đua lãi suất sẽ không tái diễn. Bản thân người gửi tiền cũng sẽ có ý thức hơn trong việc lựa chọn ngân hàng gửi tiền và các ngân hàng sau sự việc này cũng sẽ nhìn nhận lại mình một cách nghiêm túc,” bà Hồng cho hay.
Trong khi đó, nhìn nhận ở một khía cạnh khác, bà Nguyễn Thị Kim Thanh-Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng nhận định: Hiện tại, chưa có bất kỳ một cơ quan chủ quản nào đứng ra nghiên cứu toàn diện để xây dựng một chính sách tài chính. Hơn nữa, cũng chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về sự tăng của lãi suất tác động về mặt định lượng như thế nào đối với nền kinh tế cũng như đầu tư... "Và khi đó, chưa thể nói đến chuyện phối hợp thế nào và mức độ phối hợp đến đâu giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ," bà Thanh nhận định.
Đồng tình với quan điểm của các chuyên gia trong nước, ông Tomoyuki Kimura-Giám đốc ADB tại Việt Nam nói: “Phối hợp chặt chẽ hơn chính sách tiền tệ với các chính sách vĩ mô khác là yếu tố quan trọng để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Khôi phục ổn định vĩ mô là ưu tiên trước mắt, song giải quyết tận gốc những nguyên nhân của lạm phát cao đòi hỏi phải nỗ lực nhiều hơn trong cải cách cơ cấu”.
Chính vì vậy, hội thảo đã được nghe các tham luận đến từ các cơ quan hoạch định chính sách và chuyên gia của Indonesia, Philippines chia sẻ những kinh nghiệm trong việc quản lý dòng vốn cũng như việc thực thi và phối kết hợp giữa hai chính sách tài chính-tiền tệ để thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế là kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng bền vững trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động như hiện nay.
Hội thảo cũng là một cơ hội tốt cho các đại biểu thảo luận và đánh giá vai trò và khuyến nghị về tiếp tục cải thiện chính sách tiền tệ và các cải cách cơ cầu rộng cần thiết để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam./.
Khánh Chi (Vietnam+)