Doanh nghiệp Việt khai thác thị trường Halal: Tiềm năng và thách thức

Hạn chế của Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường Halal là tỷ lệ người theo đạo Hồi rất thấp và ít người trong số đó được đào tạo về quy trình chứng nhận Halal.
Doanh nghiệp Việt khai thác thị trường Halal: Tiềm năng và thách thức ảnh 1Quang cảnh hội thảo. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Ngành công nghiệp Halal (ngành công nghiệp cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn cho người Hồi giáo) nói chung và thực phẩm Halal nói riêng có quy mô lớn và tiềm năng tăng trưởng cao.

Tuy nhiên tại Việt Nam chưa có nhiều doanh nghiệp tận dụng được cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu.

Đây là nhận định của các đại biểu tại Hội thảo về thị trường Halal: Khái niệm, tiềm năng và thách thức do Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Lương thực Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức chiều 13/7.

Thị trường rộng mở

Ông Nguyễn Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh, thông tin thị trường thực phẩm Halal dành cho người Hồi giáo trên thế giới hiện phục vụ khoảng 2 tỷ người.

Quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu đã đạt tới 7.000 tỷ USD vào năm 2022 và dự kiến tăng lên mức khoảng 10.000 tỷ USD trước năm 2028.

Đáng chú ý, khu vực Đông Nam Á-Nam Á-Nam Thái Bình Dương là thị trường xuất khẩu tiềm năng của sản phẩm Halal, với số dân theo đạo Hồi và sử dụng thực phẩm Halal khoảng 860 triệu người.

Đây là địa bàn tiêu thụ thực phẩm Halal lớn nhất thế giới với khoảng 470 tỷ USD, trong đó Đông Nam Á là 230 tỷ USD, Nam Á-Nam Thái Bình Dương là 238 tỷ USD.

Theo ông Nguyễn Tuấn, mặc dù Việt Nam là quốc gia có thế mạnh về xuất khẩu nông, thuỷ sản lớn trên thế giới, lại có vị trí địa lý gần những thị trường tiêu dùng sản phẩm Halal lớn nhưng hoạt động xuất nhập khẩu thực phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Halal mới chỉ là bước đầu khai phá.

Mỗi năm, có khoảng 50 công ty được cấp chứng nhận Halal với các sản phẩm chủ yếu là hải sản, đồ uống, thực phẩm đóng hộp, bánh kẹo, đồ ăn chay và dược phẩm với sản lượng chưa nhiều.

[Cơ hội cho doanh nghiệp tham gia vào thị trường Halal còn rất lớn]

Cùng góc nhìn, bà Lý Thị Kim Chi, Chủ tịch Hội Lương thực thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh nhận định, nhu cầu về sản phẩm Halal tăng mạnh không chỉ vì sự tăng nhanh của dân số Hồi giáo, mà còn phản ánh xu hướng nhiều người không theo đạo Hồi ở những nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU… ngày càng ưa chuộng các sản phẩm Halal, do đáp ứng các tiêu chuẩn cao về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường.

Trong khi đó, Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu nông, thủy sản lớn trên thế giới với nhiều mặt hàng tiêu biểu như gạo, cao su, chè, điều, cà phê, hồ tiêu, tôm, cá…là những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người Hồi giáo.

Đặc biệt, vị trí địa lý gần những thị trường Halal lớn khi khoảng 62% dân số Hồi giáo tập trung tại châu Á.

Ngay tại Đông Nam Á, Indonesia hay Malaysia,… những quốc gia Hồi giáo đông dân này sẽ là những thị trường tiềm năng với doanh nghiệp Việt Nam.

Bà Wong Chia Chiann, Tổng Lãnh sự Malaysia tại Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết ngành công nghiệp Halal đang là một trong những xu hướng trên thị trường thế giới.

Hiện tại, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tìm hiểu về thị trường Halal nhưng mức độ tường tận chưa nhiều.

Halal có nghĩa là “được phép” và “hợp pháp” với các quy tắc Hồi giáo trong mọi khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt là về tiêu thụ thực phẩm và trong lối sống.

Đối với thực phẩm, tiêu chuẩn Halal yêu cầu “quá trình chuẩn bị thực phẩm halal phải tuân theo các quy tắc Hồi giáo và tính toàn vẹn, an toàn và vệ sinh của sản phẩm được duy trì trong suốt chuỗi cung ứng chứ không đơn thuần chỉ là nguyên liệu đầu vào.

Hạn chế của Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường Halal là tỷ lệ người theo đạo Hồi rất thấp và ít người trong số đó được đào tạo về quy trình chứng nhận Halal. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc Việt Nam không có cơ hội để khai thác thị trường này.

“Trên thực tế, Việt Nam được đánh giá là một địa chỉ đáng tin cậy trong sản xuất lương thực. Thêm vào đó, các thống kế cho thấy hầu hết các nhà xuất khẩu thực phẩm Halal đến từ các quốc gia không theo đạo Hồi, chẳng hạn như Australia, nơi có ít dân số theo đạo Hồi nhưng đã xuất khẩu thịt Halal trị giá hơn 2,36 tỷ USD vào năm 2021.

Điều kiện quan trọng nhất là các quốc gia và doanh nghiệp nhận thức rõ tầm quan trọng và khả năng đóng góp của ngành công nghiệp Halal vào doanh thu của quốc gia,” bà Wong Chia Chiann chia sẻ.

Đẩy mạnh hợp tác

Bà Lý Thị Kim Chi cho rằng dù nhu cầu sản phẩm Halal rất lớn nhưng các doanh nghiệp thực phẩm của Việt Nam mới đáp ứng được một phần nhỏ.

Nguyên nhân xuất phát từ việc để đưa được các sản phẩm vào các quốc gia Hồi giáo đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chứng nhận Halal cho các sản phẩm của mình.

Doanh nghiệp Việt khai thác thị trường Halal: Tiềm năng và thách thức ảnh 2Các đại biểu quốc tế tham dự Hội thảo về thị trường Halal. (Ảnh: Xuân Anh/TTXVN)

Trong khi đó, các tiêu chuẩn và quy định Halal đang ngày càng nghiêm ngặt, chứng nhận Halal lại không có giá trị vĩnh viễn, không được công nhận như nhau ở tất cả các quốc gia, với tất cả mặt hàng.

Điều này gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp vì phải tái chứng nhận nhiều lần và phải căn cứ vào từng thị trường xuất khẩu để đăng ký chứng nhận cho phù hợp.

Trong bối cảnh đó, hợp tác giao thương với Malaysia trong chế biến và xuất khẩu thực phẩm Halal sẽ giúp Việt Nam không chỉ khai thác được thị trường Malaysia mà còn mở rộng xuất khẩu sang các nước Hồi giáo đầy tiềm năng cũng như thâm nhập thị trường Halal toàn cầu.

Ông Haji Machdares Samael, Quyền Chủ tịch Ủy ban Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, nhiều nước có thị trường Halal hoặc xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Halal đã nhanh chóng thành lập các cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về xây dựng hệ thống tiêu chuẩn Halal và chứng nhận Halal.

Trong khi đó, Việt Nam chưa có cơ quan nhà nước cấp chứng nhận về tiêu chuẩn Halal, thay vào đó làmột số tổ chức tư nhân cấp chứng nhận Halal.

Vì nhiều lý do khác nhau, các tổ chức chứng nhận Halal của Việt Nam hiện chưa tiếp cận yêu cầu ngày càng cao của ngành công nghiệp Halal thế giới. Đội ngũ kiểm định viên theo dõi hoạt động sản xuất các mặt hàng Halal còn có những hạn chế nhất định.

Theo ông Haji Machdares Samael, khi các tiêu chuẩn Halal ngày càng hoàn thiện, mở rộng ra nhiều nhóm hàng và siết chặt về chất lượng trong đó có các mặt hàng thủy sản nuôi trồng, trà… sẽ tác động ngày càng sâu sắc đến hàng hóa xuất khẩu và dịch vụ của Việt Nam.

Do có nhiều hệ thống tiêu chuẩn Halal trên thế giới nên các tổ chức chứng nhận Halal của Việt Nam buộc phải làm việc với nhiều tổ chức chứng nhận Halal của các nước để được chấp nhận chứng nhận Halal, khiến cho chi phí cấp chứng nhận tăng lên.

Các chi phí đó cuối cùng do các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Halal phải gánh chịu, từ dó làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam.

Về phần mình, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu sản phẩm Halal gặp khó khăn trong đầu tư dây chuyền sản xuất, trang thiết bị riêng biệt, nguồn nguyên liệu an toàn cho đến các khâu đóng gói, vận chuyển, bảo quản… theo tiêu chuẩn Halal.

Điều này nếu không được giải quyết, sẽ hạn chế khả năng doanh nghiệp Việt Nam trong việc giữ và mở rộng thị trường Halal.

Chính vì vậy, bên cạnh việc nhận thức đúng và đầy đủ về thị trường Halal, Việt Nam cần có sự chuẩn bị tốt từ cả phía các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp để vượt qua thách thức, đồng thời không bỏ lỡ cơ hội do thị trường này đem lại.

Bà Wong Chia Chiann cho rằng muốn khai thác hiệu quả thị trường Halal, Việt Nam cần xây dựng tiêu chuẩn chứng nhận Halal của riêng mình, song song việc thúc đẩy hợp tác với các đối tác có kinh nghiệm. Malaysia đã tiến tới ngành công nghiệp Halal trong số các quốc gia ASEAN từ nhiều năm trước.

Nền tảng vững chắc để phát triển ngành thực phẩm Halal ở Malaysia được thực hiện thông qua các hội thảo và giáo dục để tạo ra nguồn nhân lực tương thích và tiêu chuẩn hóa Halal bởi Ủy ban Halal Malaysia.

“Để phát triển hệ sinh thái Halal tốt hơn ở Việt Nam trong ngắn hạn, chúng tôi đề xuất các doanh nghiệp Việt Nam đưa các nhân sự /chuyên gia theo đạo Hồi giáo vào tổ chức của họ để phát triển chính sách Halal, ủy ban Halal nội bộ và giám sát quy trình Halal.

Về lâu dài, Malaysia sẽ đề xuất xây dựng các nhân sự, chuyên gia trong nước về quy trình chứng nhận Halal, đặc biệt là trong cộng đồng Hồi giáo. Malaysia sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của mình cho các doanh nghiệp Việt Nam,” bà Wong Chia Chiann khuyến nghị./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục