Sức ép kinh tế - biện pháp gây áp lực "ưa thích" của Mỹ và Trung Quốc

Mặc dù chỉ trích Mỹ áp dụng các biện pháp áp buộc đơn phương, cả Trung Quốc và Mỹ đều sử dụng biện pháp tẩy chay, thuế quan, hạn ngạch thương mại để gây sức ép với các nước có tranh chấp.
Ảnh minh họa. (Nguồn: Reuters)
Ảnh minh họa. (Nguồn: Reuters)

Trang The Strategist của Viện Chính sách Chiến lược Australia ngày 15/10 đăng bài viết của David Uren, nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Mỹ tại Đại học Sydney, nhận định rằng trong khi Trung Quốc đang đẩy mạnh chiến dịch gây sức ép kinh tế đối với Australia, hiện mục tiêu đang nhắm vào ngành công nghiệp than, ông Zhang Jun, Đại sứ Trung Quốc tại Liên hợp quốc tuần trước đã đi đầu trong chiến dịch có sự tham gia của 26 quốc gia để phản đối sự cưỡng ép kinh tế của Mỹ.

"Chúng ta tiếp tục chứng kiến việc áp dụng các biện pháp ép buộc đơn phương, trái với mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, chủ nghĩa đa phương và các chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế," ông Zhang phát biểu trước Ủy ban nhân quyền của Liên hợp quốc, thay mặt cho một nhóm các quốc gia trong đó có các nước đang là mục tiêu trừng phạt chính của Mỹ như Triều Tiên, Cuba, Venezuela, Iran, Palestine, Nga, Syria và Zimbabwe.

Ông Zhang còn thu hút sự chú ý tới việc Phong trào Không liên kết lên án các biện pháp ép buộc đơn phương và kêu gọi việc chấm dứt sử dụng các biện pháp này để hỗ trợ các quốc gia ứng phó với đại dịch COVID-19.

Tuy nhiên, trong khi phản đối sự ép buộc kinh tế của Mỹ, Trung Quốc kiên trì không thừa nhận rằng nước này sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để ép buộc các quốc gia khác vì mục đích chính trị.

[Mỹ cảnh báo trừng phạt mọi hành động bán vũ khí cho Iran]

Ngay cả khi phát động một chiến dịch toàn diện chống lại Hàn Quốc sau khi nước này cho phép Mỹ lắp đặt hệ thống chống tên lửa trên lãnh thổ của mình vào năm 2017, Trung Quốc vẫn khẳng định trước Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) rằng họ không hề làm điều gì. Chiến dịch này, bao gồm lệnh cấm du lịch, tẩy chay Hyundai và buộc đóng cửa 70% các siêu thị Lotte do Hàn Quốc sở hữu ở Trung Quốc, chỉ được nới lỏng sau khi Hàn Quốc đàm phán một thỏa thuận quân sự để “bình thường hóa” quan hệ.

Tuy nhiên, cả Mỹ và Trung Quốc đều tăng cường sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế trong ba năm qua, theo các cách hoàn toàn khác nhau. Hệ thống trừng phạt kinh tế của Mỹ được chính thức hóa rất cao. Một cơ quan của Bộ Tài chính Mỹ, Văn phòng Kiểm soát Tài sản Nước ngoài (OFAC), duy trì danh sách các tổ chức và cá nhân bị xử phạt dài tới hơn 1.000 trang và áp dụng các hình phạt nặng nề đối với các hành vi vi phạm.

Hệ thống của Trung Quốc là không chính thức, dựa vào các biện pháp tẩy chay và can thiệp để từ chối quyền tiếp cận thị trường Trung Quốc rộng lớn. Cách làm này đã được áp dụng từ rất lâu. Nghiên cứu học thuật đầu tiên về sự cưỡng ép của Trung Quốc đã được thực hiện vào năm 1930, cho thấy nước này đã nhiều lần tẩy chay các sản phẩm từ Mỹ, Anh và Nhật Bản trong 25 năm trước đó.

Sức ép kinh tế - biện pháp gây áp lực "ưa thích" của Mỹ và Trung Quốc ảnh 1Rượu vang Australia được bày bán tại Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 18/8/2020. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Bằng cách phủ nhận rằng các hành động của mình được dàn dựng một cách chính thức, Trung Quốc vừa tránh được trách nhiệm giải trình vừa khiến các nước khác phải suy đoán về mục đích của Trung Quốc để tránh bị trừng phạt.

Kể từ khi Chính phủ Australia bày tỏ sự không hài lòng với Chính phủ Trung Quốc và kêu gọi một cuộc điều tra độc lập về nguồn gốc của đại dịch COVID-19 vào tháng Tư năm nay, Trung Quốc đã áp dụng các mức thuế trừng phạt đối lúa mạch xuất khẩu của nước này, ngừng nhập khẩu thịt bò từ một số cơ sở chế biến với cáo buộc vi phạm sức khỏe, mở một cuộc điều tra chống bán phá giá đối với rượu vang Australia.

Chính phủ Trung Quốc cũng cảnh báo sinh viên và khách du lịch không nên đến Australia vì lý do an toàn. Các báo cáo của ngành công nghiệp than Australia cho biết vào tuần trước Trung Quốc đã ra một chỉ thị yêu cầu các nhà máy thép và cảng của nước này ngừng mua than của Australia.

Về phía Mỹ, trong khi Australia khó có thể trở thành mục tiêu của các lệnh trừng phạt của Washington, các doanh nghiệp Australia có nguy cơ bị thiệt hại ngoài dự kiến. Mỹ khẳng định sức mạnh bên ngoài lãnh thổ của mình bằng các lệnh trừng phạt và tuyên bố rằng một ai đó chỉ có thể giao dịch với một thực thể bị Mỹ trừng phạt hoặc chỉ với Mỹ mà thôi.

Chẳng hạn, một công ty Australia vô tình bán hàng cho Iran có thể bị truy tố ở Mỹ với nguy cơ bị phạt nặng và bị cấm giao dịch bằng đồng USD. Khoản tiền phạt lớn nhất do vi phạm các lệnh trừng phạt của Mỹ là 8,8 tỷ USD, được áp dụng đối với ngân hàng lớn nhất của Pháp PNB Paribas vào năm 2014.

Chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã coi ép buộc kinh tế là một giải pháp thay thế rẻ hơn nhiều cho sự can thiệp quân sự. Trước cuộc bầu cử năm 2016, ông Donald Trump tuyên bố: "Chiến tranh và xâm lược sẽ không phải là biện pháp đầu tiên của tôi." Thay vào đó, ông nói: "Đòn bẩy tài chính và các biện pháp trừng phạt có thể mang tính thuyết phục rất cao, nhưng chúng ta cần sử dụng chúng một cách có chọn lọc và quyết tâm cao nhất." Ông Trump không chỉ gia tăng việc áp đặt các lệnh trừng phạt mà còn tăng mức phạt lên rất cao.

Sức ép kinh tế - biện pháp gây áp lực "ưa thích" của Mỹ và Trung Quốc ảnh 2Chính quyền Tổng thống Donald Trump đã áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế với nhiều nước như Iran, Cuba. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Số lượng các quốc gia bị Mỹ trừng phạt cũng ngày càng tăng. Washington thậm chí áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế cả với châu Âu, cấm tất cả các công ty tham gia vào đường ống dẫn khí đốt từ Nga đến Đức không được hoạt động tại Mỹ.

Trung Quốc tăng cường sử dụng các biện pháp ép buộc kinh tế khi sức mạnh kinh tế của nước này tăng lên. Điều này thể hiện rõ trong năm nay khi Trung Quốc phải vừa nỗ lực né tránh các cáo buộc về trách nhiệm đối với đại dịch COVID-19 và vừa đối phó với những lo ngại an ninh quốc gia ở nhiều quốc gia về các rủi ro của đầu tư Trung Quốc. Trung Quốc đã cảnh báo, và trong một số trường hợp đã thực hiện, các biện pháp tẩy chay và trừng phạt thương mại khác đối với Anh, Đức, Canada, Hà Lan, Cộng hòa Séc, Thụy Điển và Australia.

Các "đòn bẩy" kinh tế đang gia tăng khi nền tảng thể chế cho thương mại quốc tế suy yếu. WTO đã mất khả năng phân xử các tranh chấp, do Hội đồng phúc thẩm của tổ chức này không còn đủ số lượng thẩm phán tối thiểu sau khi Mỹ phủ quyết tất cả các cuộc bổ nhiệm. Các quốc gia đang áp đặt thuế quan, hạn ngạch thương mại và phạt chống bán phá giá ngày càng nhiều hơn, thường không phù hợp với quy định của WTO. Trước những rào cản thương mại gia tăng, Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) đã ngừng kêu gọi các thành viên chống lại chủ nghĩa bảo hộ.

Đây là một môi trường thương mại toàn cầu khiến các quốc gia dễ dàng sử dụng thương mại như một thứ vũ khí. Là một quốc gia tương đối nhỏ, mối quan tâm lớn hiện nay của Australia là duy trì môi trường thương mại toàn cầu dưới sự quản lý của WTO. Australia cuối cùng sẽ là kẻ thua cuộc trong một thế giới mà các quan hệ thương mại được điều chỉnh bởi việc sử dụng sức mạnh kinh tế.

Theo bài viết, trong khi Australia cần thể hiện quyết tâm khi đối mặt với sức ép của Trung Quốc, nước này cũng nên nỗ lực ngăn chặn và, nếu có thể, đảo ngược sự xói mòn của các thể chế thương mại toàn cầu, bằng cách hợp tác với các đồng minh và đối tác trong khu vực để thực hiện các cải cách cần thiết./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục