Máy bơm dầu tại một mỏ dầu ở Luling, bang Texas, Mỹ. (Ảnh: THX/TTXVN)
Mùa Hè vừa qua, trên một sân khấu được trang trí bằng những thùng dầu đen lấp lánh, Tổng thống Donald Trump nói với các nhà khai thác dầu mỏ ở Midland, Texas, rằng: “Mỹ hiện là siêu cường năng lượng số một ở mọi nơi trên thế giới.”
Sản lượng dầu mà các công nhân khai thác được từ đá phiến sét bên dưới Midland và tầng địa chất ở mức lớn chưa từng thấy so với những nơi khác đã củng cố niềm tự hào của ông Trump.
Trong thập kỷ qua, sản lượng dầu của Mỹ đã tăng hơn gấp đôi và sản lượng khí đốt của nước này tăng hơn 50%. Mỹ hiện là nước sản xuất hai loại nhiên liệu này hàng đầu thế giới.
[EIA: Sản lượng dầu đá phiến của Mỹ sẽ giảm xuống 7,64 triệu thùng/ngày]
Tuy nhiên, giữa bối cảnh áp lực từ biến đổi khí hậu đang ngày càng lớn và các quốc gia đang nỗ lực giảm bớt sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, việc trở thành một “máy bơm dầu” hùng mạnh sẽ không có nhiều tác dụng cho nước Mỹ như trước đây.
Trong khi đó, Trung Quốc, nhà nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch lớn nhất thế giới và cũng là nước xuất khẩu hàng đầu về năng lượng tái tạo, sẽ gặp nhiều thuận lợi.
Vị thế của siêu cường dầu mỏ
Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, khả năng tiêu thụ dầu mạnh mẽ của Mỹ đã vượt xa khả năng sản xuất của nước này.
Việc đảm bảo nguồn cung trở thành một ưu tiên hàng đầu. Cú sốc dầu mỏ trong những năm 1970 đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cả nền kinh tế và địa chính trị, thúc đẩy sự can dự của Mỹ vào Trung Đông sau đó.
Nguồn cung trong nước tăng vọt trong những năm 2010 vừa thúc đẩy nền kinh tế, vừa mở ra các cơ hội địa chính trị mới. Mỹ có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quốc gia dầu khí như Iran, Venezuela và Nga một cách tương đối tự do.
Khai thác dầu tại giếng dầu gần Williston, bang Bắc Dakota (Mỹ). (Ảnh: AFP/TTXVN)
Nhưng ý nghĩa của việc trở thành một siêu cường năng lượng đang thay đổi, nhờ vào ba sự thay đổi toàn cầu có gắn kết với nhau.
Đầu tiên, lo ngại về sự khan hiếm nhiên liệu hóa thạch đã nhường chỗ cho sự thừa nhận thực tế là nguồn cung rất phong phú. Đặc biệt là sau những thành quả đạt được ở Mỹ, ngành năng lượng giờ đây biết rằng thiếu cầu, chứ không phải thiếu cung, khiến cho sản xuất dầu, than và sau này là khí đốt bị thu hẹp.
Trong bản báo cáo “Triển vọng Năng lượng Thế giới” mới nhất được công bố ngày 14/9, tập đoàn năng lượng BP (Anh) lập luận rằng nhu cầu về dầu có thể đã đạt đỉnh và sẽ giảm mạnh.
Điều này là do sự thay đổi thứ hai, đó là sự thừa nhận của hầu hết các quốc gia rằng, để ngăn chặn biến đổi khí hậu, cần phải chấm dứt sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Hồi đầu năm nay, BP tuyên bố sẽ đưa mức phát thải khí carbon về bằng 0 vào năm 2050.
Và điều đó cũng dẫn đến sự chuyển dịch thứ ba, đó là điện khí hóa. Nhiên liệu hóa thạch cung cấp nhiệt dùng để di chuyển mọi thứ, như phương tiện giao thông hay máy phát điện.
Các tấm pin Mặt Trời và tuốcbin gió cung cấp năng lượng dưới dạng điện tức thời. Việc tối đa hóa lợi ích không phát thải có nghĩa là trong tương lai, các phương pháp và thiết bị hiện dựa vào quy trình đốt cháy phải chuyển sang sử dụng dòng điện và pin.
Phân tích của BP lập luận rằng khi thế giới dồn sức xử lý vấn đề phát thải, tỷ trọng năng lượng được sử dụng dưới dạng điện sẽ tăng từ khoảng 20% năm 2018 lên trên 50% vào năm 2050.
Nhu cầu về nhiên liệu hóa thạch giảm sẽ khiến cán cân quyền lực nghiêng từ phía nhà sản xuất sang phía người tiêu dùng - dù chắc chắn sẽ có những đảo lộn trong chặng đường thay đổi này.
Và trong một thế giới cần tạo ra nhiều điện năng không phải từ nhiên liệu hóa thạch hơn, việc sản xuất hàng loạt phương tiện để làm điều đó sẽ trở nên quan trọng, tương tự như vậy là việc chính phủ hỗ trợ và triển khai các chính sách như thế nào.
Đại dịch COVID-19 đã cung cấp một cái nhìn sâu sắc về thế giới trong đó nhu cầu về dầu giảm thay vì tăng. Khi các hoạt động kinh tế bị đóng băng vào tháng Ba, cơn khát dầu đột nhiên giảm bớt.
Các quốc gia dầu khí có nguồn thu phụ thuộc vào giá dầu đắt đỏ giờ phải đối mặt với thâm hụt ngân sách. Các nhà đầu tư không còn yêu quý các công ty dầu mỏ.
Mặc dù có sự lăng xê của ông Trump, nhưng giá trị của ngành dầu khí đá phiến của Mỹ đã giảm hơn 50% kể từ tháng 1/2020. ExxonMobil, một công ty dầu mỏ nằm trong chỉ số công nghiệp Dow Jones từ năm 1928, đã bị loại khỏi nhóm gồm 30 công ty niêm yết có giá trị lớn nhất nước Mỹ này.
Với giá trị vốn hóa thị trường là 155 tỷ USD, công ty này có giá trị thấp hơn đáng kể so với hãng sản xuất đồ thể thao Nike.
Quyền lực của khách hàng lớn nhất thế giới
Trước tình hình hỗn loạn này, nhu cầu nhập khẩu dầu của Trung Quốc, vốn đã lớn nhất thế giới và tiếp tục tăng, đã mang lại sự ổn định đáng hoan nghênh. Các nhà máy lọc dầu độc lập của quốc gia này - “những ấm pha trà” - đã đủ lớn để giúp thiết lập sàn giá dầu.
Chuyên gia Per Magnus Nysveen thuộc công ty tư vấn Rystad Energy, cho rằng: “Về cơ bản chúng là máy hút bụi của thị trường dầu mỏ.”
Michal Meidan, người đứng đầu các nghiên cứu về vấn đề năng lượng của Trung Quốc tại Đại học Oxford, chỉ ra rằng hoạt động thương mại của các công ty dầu mỏ khổng lồ thuộc sở hữu nhà nước như Tổng Công ty Dầu khí và Hóa chất Trung Quốc (SINOPEC) và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) chi phối giá dầu thô bán sang châu Á.
Đây là hai trong số ba nhà giao dịch hàng hóa thô lớn nhất được định giá trên thị trường hợp đồng tương lai Platts Dubai. Giá dầu thấp cũng cho phép Trung Quốc tăng cao các nguồn dự trữ chiến lược.
Những phát hiện lớn ngoài khơi bờ biển Brazil và Guyana và tiềm năng tăng trưởng sản lượng khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Australia, cùng với sự bùng nổ dầu đá phiến của Mỹ, tạo thêm các cơ hội cho Trung Quốc.
Nhiều nhà khai thác dầu mỏ lạc quan nghĩ rằng nhu cầu vẫn chưa đạt đỉnh, ngược lại với nhận định của BP. Nhưng họ cũng thừa nhận rằng nguồn cung dầu dưới mặt đất vượt xa cơn khát ở phía trên và sự tranh giành khách hàng có khả năng sẽ nóng lên.
Trong một số trường hợp, việc tranh giành nhu cầu của Trung Quốc có thể rất đơn giản. Khi bắt đầu cuộc chiến giá dầu với Nga vào mùa Xuân năm nay, Saudi Arabia đã giảm giá các lô hàng chuyển đến Trung Quốc.
Các nhà lọc dầu lớn nhất Trung Quốc đang cân nhắc kế hoạch thành lập một liên minh mua hàng để tăng sức mạnh đàm phán với Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC).
Trung Quốc gần như chắc chắn cũng sẽ linh hoạt với sức mạnh tài chính của mình khi các quốc gia dầu khí đang oằn mình gánh nợ. Trung Quốc đã phát hành các khoản vay được bảo lãnh bằng dầu cho các nước có nhiều dầu mỏ như Angola và Brazil trong hơn một thập kỷ qua.
Vị thế người mua của Trung Quốc cũng cho phép nước này làm suy yếu nỗ lực của Mỹ nhằm gây áp lực cho các nhà xuất khẩu dầu. Trung Quốc từ lâu đã tiếp tục nhập khẩu dầu thô của Iran và Venezuela. Liên minh năng lượng của Trung Quốc với Nga là đặc biệt quan trọng.
Như chuyên gia năng lượng Daniel Yergin đã chỉ ra trong bài phân tích “Bản đồ mới,” Tổng thống Nga Vladimir Putin đã sớm nhận ra tầm quan trọng của các mối quan hệ năng lượng với Trung Quốc, nhưng việc xoay trục sang Trung Quốc trở nên cấp thiết hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009.
Năm 2009, Ngân hàng Phát triển Trung Quốc đã cho hai công ty Nga do nhà nước kiểm soát, công ty sản xuất dầu Rosneft và công ty xây dựng và vận hành đường ống dẫn dầu khí Transneft, vay 25 tỷ USD để đổi lấy việc phát triển các mỏ dầu mới và xây dựng một đường ống cung cấp 300.000 thùng dầu/ngày cho Trung Quốc.
Năm 2014, các lệnh trừng phạt của phương Tây đã thúc đẩy Gazprom, một tập đoàn năng lượng khổng lồ khác của Nga, cam kết thực hiện một đường ống dẫn khí đốt Power of Siberia. Đường ống này đã được khai trương vào tháng 12 năm ngoái.
Việc gắn bó với bạn hàng Trung Quốc mang lại cho Nga một thị trường rộng lớn không bị ảnh hưởng bởi những lời kêu gọi trừng phạt vào thời điểm nhu cầu của châu Âu đang chững lại.
Nhưng như chuyên gia Erica Downs từ Đại học Columbia chỉ ra rằng ngay sau khi một đường ống được xây dựng, cán cân quyền lực chuyển từ nhà cung cấp sang người mua. Sau khi đường ống dẫn dầu đầu tiên được xây dựng, Trung Quốc đã từ chối trả tiền theo giá đã thỏa thuận.
Nỗ lực đảm bảo an ninh năng lượng
Quyền lực trên thị trường này không thể che lấp được mặt trái về địa chính trị của việc phụ thuộc vào nhập khẩu. Một nhà nhập khẩu lớn có thể có nhiều quyền lực hơn so với một nhà nhập khẩu nhỏ, nhưng vẫn dễ bị tổn thương.
Trung Quốc nhận thức sâu sắc rằng phần lớn dầu nước này mua đi qua eo biển Hormuz và Malacca, nơi có thể bị phong tỏa bởi các cuộc xung đột bên thứ ba hoặc bởi Hải quân Mỹ.
Bà Meidan lưu ý rằng trong những tháng gần đây, mối lo ngại của Trung Quốc về an ninh năng lượng đã tăng lên khi quan hệ với Mỹ giảm sút. Mặc dù hai bên đều nói về xu hướng “tách rời,” nhưng Trung Quốc đã mua rất nhiều LNG từ Mỹ, cũng như dầu thô để dự trữ.
Các tài liệu về Kế hoạch 5 năm mới của Trung Quốc nhấn mạnh sự cần thiết của một hệ thống năng lượng linh hoạt và đáng tin cậy hơn.
Những thiếu hụt trong nguồn cung dầu mỏ và khí đốt khiến Trung Quốc phải bù đắp bằng chính sách công nghiệp, cách mà Trung Quốc từ lâu đã sử dụng để hỗ trợ cho lĩnh vực sản xuất than và điện hạt nhân ở trong nước cũng như cho đến nay là lĩnh vực năng lượng tái tạo lớn nhất của thế giới.
Các công ty Trung Quốc đã đầu tư vào các mỏ từ Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC) đến Chile và Australia để đảm bảo khả năng tiếp cận các khoáng chất cần thiết cho các tấm pin năng lượng Mặt Trời, xe điện và những mặt hàng tương tự.
Không thể trở thành một quốc gia dầu mỏ, Trung Quốc đang trở thành cái mà người ta có thể gọi là một quốc gia điện khi đầu tư một cách chiến lược vào toàn bộ chuỗi giá trị từ mỏ khai khoáng đến đồng hồ.
Hiện nay, công suất điện than của Trung Quốc có thể lên đến hơn 1.000 GW. Với nền tảng đã được lắp đặt này, Trung Quốc chiếm 49% lượng điện được sản xuất từ than của thế giới và trở thành nước phát thải CO2 lớn nhất thế giới. Trung Quốc được cho là sẽ tiếp tục sử dụng than trong những năm tới.
Trung Quốc hiện sản xuất trên 70% modul năng lượng Mặt Trời trên thế giới. (Nguồn: Reuters)
Trong khi đó, công suất điện Mặt Trời và gió của Trung Quốc là 445GW, dù rất lớn theo hầu hết các tiêu chuẩn, nhưng chưa bằng một nửa tổng công suất điện than và các nhà máy năng lượng tái tạo đó thường vận hành với một phần công suất thấp hơn rất nhiều so với nhà máy điện than.
Tuy nhiên, Trung Quốc cũng có 356GW thủy điện và nước này đã và đang xây dựng các nhà máy điện hạt nhân nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Tuổi trung bình của 48 lò phản ứng hạt nhân của Trung Quốc là dưới 10 năm và nước này dự kiến sẽ tiếp tục xây dựng thêm các dự án tương tự.
Điện hạt nhân, hiện chiếm chưa đến 5% điện năng của nước này, dự kiến sẽ tăng lên trên 15% vào năm 2050.
Sự phát triển của các lĩnh vực hạt nhân, gió, năng lượng Mặt Trời và pin của Trung Quốc có phần khác nhau, nhưng công thức cơ bản vẫn giống nhau. Đó là học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài và sau đó sử dụng vốn đầu tư và mệnh lệnh chuyên chế để hỗ trợ triển khai trên quy mô rất lớn.
Các khoản trợ cấp ở trong và ngoài nước đã có tác dụng. Hỗ trợ cho năng lượng tái tạo ở châu Âu trong những năm 2000 đã tạo ra nhu cầu về tấm pin Mặt Trời mà chỉ các công ty Trung Quốc, được nhà nước hỗ trợ, mới có thể đáp ứng được.
Những gã khổng lồ về pin của Trung Quốc, dẫn đầu là CATL, được hưởng lợi từ chính sách trợ giá cho xe điện sử dụng pin từ các nhà cung cấp trong nước.
Không sử dụng nhiên liệu hóa thạch, những công nghệ này vẫn đòi hỏi các nguyên liệu thô. Điện gió và điện Mặt Trời cần kim loại màu, đặc biệt là đồng, nhiều hơn so với các hệ thống đốt nhiên liệu hóa thạch. Pin cần các vật liệu riêng theo những cách mà bình nhiên liệu không đòi hỏi.
Nói chung, thế giới có rất nhiều mặt hàng này, nhưng khả năng đưa chúng ra thị trường gặp nhiều khó khăn. Như Andy Leyland đến từ công ty nghiên cứu Benchmark Minerals Intelligence, đã nói: “Không có sự thiếu hụt địa chất. Chỉ là sự thiếu hụt tài chính."
Hoạt động khai thác mỏ, thường xuyên đòi hỏi vốn đầu tư vượt quá ngân sách và bị trì hoãn, nằm ở các quốc gia dễ xảy ra bất ổn, gần như không có sức hấp dẫn đối với hầu hết các nhà đầu tư phương Tây.
Các công ty Trung Quốc đã giúp lấp đầy khoảng trống này. Một phần trong số đó là thông qua đầu tư trong nước. Trung Quốc sản xuất 60% “đất hiếm” trên thế giới, loại đất có những đặc tính hữu ích trong động cơ điện và nhiều thiết bị quan trọng khác.
Nhìn chung, đất hiếm không hiếm về mặt địa chất, nhưng dễ thiếu hụt nguồn cung do đất hiếm thường được khai thác theo những cách gây thiệt hại lớn cho môi trường địa phương.
Đối với các kim loại khác, Trung Quốc thường phải “nhìn xa trông rộng” hơn. Công ty tư nhân Tianqi có cổ phần thiểu số trong SQM - một công ty khai thác lithium lớn nhất của Chile.
Tsingshan đã đầu tư vào các dự án pin niken ở Indonesia. Đồng và coban của Cộng hòa Dân chủ Congo đã thu hút các nhà đầu tư Trung Quốc trong hơn một thập kỷ qua.
Theo bộ phận nghiên cứu BloombergNEF, Trung Quốc tinh chế lượng lithium nhiều gấp đôi và coban nhiều gấp tám lần so với bất kỳ quốc gia nào khác.
Ivanhoe Mines, công ty do nhà khai thác mỏ kỳ cựu người Mỹ Robert Friedland đứng đầu, đã nhận được sự hỗ trợ từ hai công ty Trung Quốc, CITIC và Zijin Mining, để xây dựng mỏ đồng mới lớn nhất thế giới ở Cộng hòa Dân chủ Congo.
Ông Friedland cho rằng các nhà đầu tư Trung Quốc nhìn xa hơn vào tương lai ít nhiên liệu hóa thạch so với các nhà đầu tư phương Tây. Pin trông như thế nào? Chuỗi cung ứng ở đâu? Ông Friedland nói đây là những câu hỏi mà người Trung Quốc “có thể đi trước 10 năm.”
Các chính trị gia ở Mỹ, châu Âu và Australia đã bày tỏ lo ngại trước việc Trung Quốc kiểm soát đất hiếm - các khoáng sản quan trọng không chỉ đối với năng lượng mà đối với cả quốc phòng này.
Một công ty được Bill Gates và các tỷ phú khác hậu thuẫn có kế hoạch tìm kiếm coban ở Quebec. Công ty Phát triển Tài chính của Mỹ lần đầu tiên mua cổ phần trong các công ty khai thác mỏ.
Một bên hưởng lợi là TechMet, công ty đang đặt cược rằng một số nhà đầu tư sẽ thích các mỏ không chịu sự kiểm soát của Trung Quốc. Đô đốc Mike Mullen, cựu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ và hiện là trưởng ban cố vấn của TechMet, cho biết: “Đó là vấn đề chiến lược rất quan trọng đối với Mỹ và phương Tây. Tôi gần như ví nó với Huawei. Chúng ta thức dậy và họ đã kiểm soát thế giới."
Sức mạnh của một quốc gia sản xuất điện năng
Trung Quốc hiện sản xuất trên 70% modul năng lượng Mặt Trời trên thế giới. Trung Quốc là nơi có khả năng sản xuất gần một nửa tuốc-bin gió của thế giới. Theo BloombergNEF, Trung Quốc thống trị chuỗi cung ứng pin lithium-ion khi kiểm soát việc sản xuất 77% pin và 60% linh kiện.
Với việc các ngành công nghiệp đã phát triển với quy mô lớn và chi phí hỗ trợ tăng cao, trợ cấp cho các lĩnh vực này đã bị cắt giảm. Năm ngoái, Trung Quốc cũng đã nới lỏng các hạn chế đối với các nhà sản xuất pin nước ngoài.
Phần còn lại của thế giới đã được hưởng lợi, với chi phí của các tấm pin Mặt Trời và pin đã giảm hơn 85% trong thập kỷ qua. Li Zhenguo, chủ tịch công ty sản xuất modul năng lượng Mặt Trời khổng lồ LONGi, cho biết: “Chúng tôi sẽ liên tục đầu tư vào nghiên cứu để đảm bảo chúng tôi giữ được vị trí dẫn đầu của mình về nghiên cứu và sản xuất hàng loạt.”
Trung Quốc quan tâm đến việc thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật cho một loạt các ngành công nghiệp với hy vọng sẽ định hình sân chơi cho sự đổi mới tiếp theo. Ông Kevin Tu nói, liên quan đến các công nghệ năng lượng sạch, Trung Quốc có lợi thế.
Mặc dù có những nhà đổi mới thành công và có ảnh hưởng như Tesla, nhưng trong mảng này của thế giới năng lượng, siêu cường của ông Trump có vẻ như không có thành tích lớn.
Đối thủ của ông trong cuộc bầu cử vào tháng 11 này, ông Joe Biden, hứa hẹn sẽ quay trở lại cuộc đua này. Các nước phát triển khác đang tiến xa hơn. Panasonic ở Nhật Bản và LG Chem ở Hàn Quốc đều đang có những đổi mới trong công nghệ pin.
Sự hỗ trợ hào phóng của châu Âu đã mang lại một thị trường lớn cho các nhà sản xuất tuốcbin gió hàng đầu thế giới, Siemens Gamesa, công ty có trụ sở chính tại Tây Ban Nha, và Vestas của Đan Mạch.
Và tham vọng xanh của châu Âu đang ngày càng lớn mạnh. Trong bài phát biểu thông điệp EU ngày 16/9, Chủ tịch Ủy ban châu Âu, bà Ursula von der Leyen nói rằng Ủy ban châu Âu sẽ thúc đẩy mục tiêu đưa lượng khí thải carbon vào năm 2030 giảm xuống mức dưới 55% so với năm 1990.
Điều này có nghĩa là các công ty châu Âu dự kiến phải tăng mạnh về công suất và hướng đến một tương lai gần như không phát thải. Để làm như vậy, họ sẽ phải mua thêm phần cứng từ Trung Quốc.
Nhưng chiến lược tích cực của châu Âu mang lại cho họ cơ hội đi đầu trong việc phát triển các hệ thống giúp bộ công cụ đó hoạt động cả ở trong và ngoài nước, cũng như dẫn đầu trong các công nghệ mà Trung Quốc chưa kiểm soát.
Theo BloombergNEF, công ty tiện ích Enel, có trụ sở chính tại Italy, là nhà đầu tư lớn nhất trong các dự án năng lượng gió và năng lượng Mặt Trời ở các nước đang phát triển, đứng sau không xa là các công ty Engie của Pháp và Iberdrola của Tây Ban Nha. Orsted, một công ty Đan Mạch, là nhà phát triển điện gió ngoài khơi hàng đầu thế giới.
Các công ty Trung Quốc cũng đã đầu tư một cách đầy tham vọng vào các dự án điện ở nước ngoài. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), tính đến năm 2019, trong số khoảng 575 tỷ USD vốn đã đầu tư hoặc cam kết đầu tư theo sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI) của Trung Quốc, gần một nửa dành cho các dự án năng lượng. Nhưng phần lớn các khoản đầu tư này là vào các nhà máy điện than, lò phản ứng hạt nhân và đập thủy điện.
Bên cạnh đó, các quốc gia cảnh giác với ảnh hưởng và động cơ của Trung Quốc xem xét những tiến bộ của nước này với sự nghi ngờ. Những nỗ lực của Tập đoàn lưới điện Trung Quốc (SGCC) nhằm mua cổ phần của các công ty điện châu Âu đã bị từ chối.
Ở Anh, Tập đoàn điện hạt nhân Trung Quốc (CGN), thuộc sở hữu nhà nước, có cổ phần thiểu số trong hai nhà máy điện hạt nhân do Tập đoàn Điện lực Pháp (EDF) xây dựng, nhưng một nhà máy do chính CGN xây dựng còn nhiều năm nữa mới có thể được phê duyệt hoặc có thể không bao giờ được phê duyệt.
Tuy nhiên, các công ty Trung Quốc bắt đầu đầu tư nhiều hơn vào điện gió và năng lượng Mặt Trời ở nước ngoài. Năm ngoái, CGN đã mua các trang trại điện gió và năng lượng Mặt Trời có công suất hơn 1GW ở Brazil.
Để tối đa hóa sức mạnh quốc gia điện của mình, Trung Quốc cần kết hợp sức mạnh về năng lượng tái tạo, và có thể là hạt nhân, và sức mạnh sản xuất của mình với các thỏa thuận cho phép các công ty Trung Quốc cung cấp điện ở một số lượng lớn các quốc gia.
Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA) đã ám chỉ rằng “ngoại giao cơ sở hạ tầng” có thể đóng vai trò quan trọng đối với sức mạnh của Trung Quốc trong thế kỷ 21 như việc bảo vệ các tuyến đường biển quan trọng đối với sức mạnh của Mỹ trong thế kỷ 20.
Nếu sử dụng một cách khéo léo, quá trình chuyển đổi năng lượng có thể mang lại cho Trung Quốc những lợi thế lớn hơn nhiều những gì có thể đạt được với các giàn khoan và đường ống./.