Gặp lại người Anh hùng rừng Sác-Trịnh Xuân Bảng, ông hồ hởi kể lại những ngày tháng xung phong đi diệt giặc cứu nước năm xưa.
Nhà ông cách phía Nam cầu Càng chừng 500m, sát đường quốc lộ 1A, thuộc thôn Hòa Bình, xã Quảng Hưng, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đó là căn nhà là của Binh chủng Hải quân tặng nhân dịp kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mấy năm trước. Uống ly nước chè xanh đậm đặc, ông kể lại những ngày tháng xung phong đi diệt giặc năm xưa.
Tháng 2/1965, 24 tuổi, Trịnh Xuân Bảng hồ hởi lên đường nhập ngũ. Ông là lính bộ binh thuộc đơn vị 365 Bộ đội Quảng Bình. Năm đó, Trịnh Xuân Bảng cùng ba chiến sĩ gia nhập lực lượng Hải quân, cấp tốc được đưa ra Hải Phòng luyện tập, gia nhập binh chủng mới, Binh chủng đặc công nước. Sau đó, vào đến Đồng Nai, phiên chế vào Trung đoàn 10, Quân đoàn 7.
Rừng Sác thuộc địa phận giữa Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu, cách Thành phố Hồ Chí Minh chừng 30km, là hậu cứ của đặc công nước, một vùng sình lầy mênh mông đủ các loại cây sú, vẹt, đước, mắm... Ông cho biết nhiều lần tiếp tế lương thực từ các hậu phương bị bế tắc, chiến sĩ rừng Sác phải bắt ốc, bắt cua, nấu với tiêu chuẩn một người một vốc gạo mỗi bữa. Bọn thám báo luôn rình rập.
Máy bay OV10 của Mỹ ngày nào cũng “vè lượn tìm mồi.” Khả nghi, chúng gọi phản lực đến ném bom, vãi đạn. Tuy vậy, người chiến sĩ đặc công rừng Sác vẫn sống, bám trụ, biến nơi đây thành bàn đạp, làm nên những chiến công thần kỳ, khiến quân thù khiếp sợ.
Ông Trịnh Xuân Bảng lại kể về chiến công mà ông được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng giữa năm 1969: Sau Tết Mậu Thân 1968, địch tăng cường chốt chặn khắp mọi tuyến đường để cô lập thành phố và chiến khu của ta. Những ngày cơm thiếu, đạn thiếu, rừng Sác như người bệnh kiệt sức.
Chính quyền Mỹ-ngụy huênh hoang trên các phương tiện thông tin đại chúng rằng, Việt Cộng đã bị tiêu diệt hoàn toàn, vì súng đạn Hoa Kỳ, vì đói, vì bệnh. Phải lấy lại lòng tin của dân. Phải nói cho mọi người được biết: Cách mạng còn đây! Sức mạnh và ý chí của Việt Nam còn đây! Tư lệnh Quân khu 7 Lương Văn Nho (còn gọi là Hai “Nhã”) và Trần Bá Ước, Trung đoàn trưởng bao đêm bần thần trước một câu hỏi lớn của lịch sử.
Ý định đánh kho xăng Nhà Bè để vì mục đích ấy, vẫn như bài toán không có lời giải. "Để em đi cho, thủ trưởng hí!" "Nói dốc," Tư lệnh trưởng Hai “Nhã” nhìn vào đôi mắt Trịnh Xuân Bảng. Người con trai của đất lửa Quảng Bình cầm tay Tư lệnh trưởng của mình, lay lay với một lời thề tín nghĩa: "Thủ trưởng hãy tin thằng em quê Quảng Bình này!"
Trầm ngâm một lát, Trung đoàn trưởng Trần Bá Ước ngồi bên bỗng cất giọng: "Mà mày lấy cái gì để đánh?" Thế là các "ổng" đồng ý rồi, Trịnh Xuân Bảng nghĩ vậy liền hăng hái lên: "Có gì đâu, thủ trưởng! Bảo công binh tháo một quả bom chưa nổ 500 bảng Anh là em ẵm đi được thôi!"
Kế hoạch Trịnh Xuân Bảng đề xuất được thực thi. Ông được quyền chọn 2 chiến sĩ để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó là Trần Dần, quê Hà Tĩnh và Nguyễn Chất Xê, quê Thái Bình. Trước tối lên đường, 3 chiến sĩ cảm tử của rừng Sác được ngồi chung mâm với các thủ trưởng.
Hôm đó, bữa cơm chia tay được coi là bữa cơm "giỗ sống." Đã nhiều lần, có những cuộc chia tay của các chiến sĩ rừng Sác như thế này, người ra đi đã không trở lại. Trời chập choạng, Trịnh Xuân Bảng cùng hai chiến sĩ rừng Sác lên đường. Khối thuốc nổ được đặt trên một bè chìm, lắp xắp mặt nước, tất cả vừa bơi đứng, vừa đẩy khối thuốc nổ xuôi theo dòng sông Sài Gòn.
Đúng lúc đó, một chiếc tàu 1,5 vạn tấn của Mỹ cập cảng Nhà Bè luôn được bảo vệ cẩn mật. Không những bằng các canô tuần tiễu mà còn lính tráng trên mạn tàu thỉnh thoảng ném lựu đạn xuống sông để phòng ngừa đặc công nước Việt Cộng có thể xâm nhập.
Đèn pha của chúng luôn luôn quét sáng mặt nước, kiểm soát từng vật nhỏ trên sông. Nhưng với mưu trí thao lược, khoảng 2 giờ sáng thì cả khối thuốc nổ được ba chiến sĩ áp vào được mạn tàu giặc. Một tiếng nổ và khối lửa bùng lên dữ dội ở cảng Nhà Bè, áp suất trong nước đẩy mỗi người một nơi, không tìm được nhau.
Gần sáng, Tổ trưởng Trịnh Xuân Bảng đã gặp một chị nông dân. Nhờ chị, ông có trang phục và thức ăn để về rừng Sác sau bảy ngày ròng rã. Còn Trần Dần, Nguyễn Chất Xê sau đó cũng trở về đơn vị an toàn. Về sau, hai chiến sĩ này cũng được phong Anh hùng, bởi họ còn tham gia nhiều chiến công oanh liệt khác.
Anh hùng Trịnh Xuân Bảng bám trụ rừng Sác, tới năm 1972, ông được ra Bắc chữa bệnh. Trước khi rời chiến trường, ông được Mặt trận Campuchia mời tham mưu cho một trận thủy chiến. Sau ba đêm thức trắng tìm ra cách đánh, Trịnh Xuân Bảng ôm khối thuốc nổ hơn 600 cân vào trận đánh.
Chiếc tàu chở 4.000 tấn vũ khí đạn dược tiếp tế cho bọn phản động neo đậu ở cảng Tân Châu trong Vịnh Xihanuc bị nổ tung, bốc cháy rồi chìm nghỉm làm nức lòng người. Những chiến công oanh liệt của Trung đoàn 10, sau này được in thành sách với tựa đề: "Đoàn 10 rừng Sác anh hùng." (xuất bản năm 1986, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh).
Năm 1987, ông được nghỉ hưu với quân hàm Trung tá. Chân ướt, chân ráo về với đất Quảng Hưng lắm cỏ dại và cát trắng, người Anh hùng rừng Sác năm xưa thoát nghèo bằng cách khai hoang, phục hóa hơn 1,5 mẫu ruộng, trong đó có bốn sào ruộng khoán của hợp tác xã. Nhờ đó, cuộc sống gia đình của ông cũng ổn định dần qua năm tháng.
Chia tay ông nhưng chúng tôi không quên những lời ông đã dặn dò “Các bác đã cống hiến tất cả cho đất nước. Vậy các cháu cũng phải cố gắng để làm tốt và xứng đáng là lớp kế cận tương lai của đất nước”./.
Nhà ông cách phía Nam cầu Càng chừng 500m, sát đường quốc lộ 1A, thuộc thôn Hòa Bình, xã Quảng Hưng, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đó là căn nhà là của Binh chủng Hải quân tặng nhân dịp kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mấy năm trước. Uống ly nước chè xanh đậm đặc, ông kể lại những ngày tháng xung phong đi diệt giặc năm xưa.
Tháng 2/1965, 24 tuổi, Trịnh Xuân Bảng hồ hởi lên đường nhập ngũ. Ông là lính bộ binh thuộc đơn vị 365 Bộ đội Quảng Bình. Năm đó, Trịnh Xuân Bảng cùng ba chiến sĩ gia nhập lực lượng Hải quân, cấp tốc được đưa ra Hải Phòng luyện tập, gia nhập binh chủng mới, Binh chủng đặc công nước. Sau đó, vào đến Đồng Nai, phiên chế vào Trung đoàn 10, Quân đoàn 7.
Rừng Sác thuộc địa phận giữa Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu, cách Thành phố Hồ Chí Minh chừng 30km, là hậu cứ của đặc công nước, một vùng sình lầy mênh mông đủ các loại cây sú, vẹt, đước, mắm... Ông cho biết nhiều lần tiếp tế lương thực từ các hậu phương bị bế tắc, chiến sĩ rừng Sác phải bắt ốc, bắt cua, nấu với tiêu chuẩn một người một vốc gạo mỗi bữa. Bọn thám báo luôn rình rập.
Máy bay OV10 của Mỹ ngày nào cũng “vè lượn tìm mồi.” Khả nghi, chúng gọi phản lực đến ném bom, vãi đạn. Tuy vậy, người chiến sĩ đặc công rừng Sác vẫn sống, bám trụ, biến nơi đây thành bàn đạp, làm nên những chiến công thần kỳ, khiến quân thù khiếp sợ.
Ông Trịnh Xuân Bảng lại kể về chiến công mà ông được Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng giữa năm 1969: Sau Tết Mậu Thân 1968, địch tăng cường chốt chặn khắp mọi tuyến đường để cô lập thành phố và chiến khu của ta. Những ngày cơm thiếu, đạn thiếu, rừng Sác như người bệnh kiệt sức.
Chính quyền Mỹ-ngụy huênh hoang trên các phương tiện thông tin đại chúng rằng, Việt Cộng đã bị tiêu diệt hoàn toàn, vì súng đạn Hoa Kỳ, vì đói, vì bệnh. Phải lấy lại lòng tin của dân. Phải nói cho mọi người được biết: Cách mạng còn đây! Sức mạnh và ý chí của Việt Nam còn đây! Tư lệnh Quân khu 7 Lương Văn Nho (còn gọi là Hai “Nhã”) và Trần Bá Ước, Trung đoàn trưởng bao đêm bần thần trước một câu hỏi lớn của lịch sử.
Ý định đánh kho xăng Nhà Bè để vì mục đích ấy, vẫn như bài toán không có lời giải. "Để em đi cho, thủ trưởng hí!" "Nói dốc," Tư lệnh trưởng Hai “Nhã” nhìn vào đôi mắt Trịnh Xuân Bảng. Người con trai của đất lửa Quảng Bình cầm tay Tư lệnh trưởng của mình, lay lay với một lời thề tín nghĩa: "Thủ trưởng hãy tin thằng em quê Quảng Bình này!"
Trầm ngâm một lát, Trung đoàn trưởng Trần Bá Ước ngồi bên bỗng cất giọng: "Mà mày lấy cái gì để đánh?" Thế là các "ổng" đồng ý rồi, Trịnh Xuân Bảng nghĩ vậy liền hăng hái lên: "Có gì đâu, thủ trưởng! Bảo công binh tháo một quả bom chưa nổ 500 bảng Anh là em ẵm đi được thôi!"
Kế hoạch Trịnh Xuân Bảng đề xuất được thực thi. Ông được quyền chọn 2 chiến sĩ để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó là Trần Dần, quê Hà Tĩnh và Nguyễn Chất Xê, quê Thái Bình. Trước tối lên đường, 3 chiến sĩ cảm tử của rừng Sác được ngồi chung mâm với các thủ trưởng.
Hôm đó, bữa cơm chia tay được coi là bữa cơm "giỗ sống." Đã nhiều lần, có những cuộc chia tay của các chiến sĩ rừng Sác như thế này, người ra đi đã không trở lại. Trời chập choạng, Trịnh Xuân Bảng cùng hai chiến sĩ rừng Sác lên đường. Khối thuốc nổ được đặt trên một bè chìm, lắp xắp mặt nước, tất cả vừa bơi đứng, vừa đẩy khối thuốc nổ xuôi theo dòng sông Sài Gòn.
Đúng lúc đó, một chiếc tàu 1,5 vạn tấn của Mỹ cập cảng Nhà Bè luôn được bảo vệ cẩn mật. Không những bằng các canô tuần tiễu mà còn lính tráng trên mạn tàu thỉnh thoảng ném lựu đạn xuống sông để phòng ngừa đặc công nước Việt Cộng có thể xâm nhập.
Đèn pha của chúng luôn luôn quét sáng mặt nước, kiểm soát từng vật nhỏ trên sông. Nhưng với mưu trí thao lược, khoảng 2 giờ sáng thì cả khối thuốc nổ được ba chiến sĩ áp vào được mạn tàu giặc. Một tiếng nổ và khối lửa bùng lên dữ dội ở cảng Nhà Bè, áp suất trong nước đẩy mỗi người một nơi, không tìm được nhau.
Gần sáng, Tổ trưởng Trịnh Xuân Bảng đã gặp một chị nông dân. Nhờ chị, ông có trang phục và thức ăn để về rừng Sác sau bảy ngày ròng rã. Còn Trần Dần, Nguyễn Chất Xê sau đó cũng trở về đơn vị an toàn. Về sau, hai chiến sĩ này cũng được phong Anh hùng, bởi họ còn tham gia nhiều chiến công oanh liệt khác.
Anh hùng Trịnh Xuân Bảng bám trụ rừng Sác, tới năm 1972, ông được ra Bắc chữa bệnh. Trước khi rời chiến trường, ông được Mặt trận Campuchia mời tham mưu cho một trận thủy chiến. Sau ba đêm thức trắng tìm ra cách đánh, Trịnh Xuân Bảng ôm khối thuốc nổ hơn 600 cân vào trận đánh.
Chiếc tàu chở 4.000 tấn vũ khí đạn dược tiếp tế cho bọn phản động neo đậu ở cảng Tân Châu trong Vịnh Xihanuc bị nổ tung, bốc cháy rồi chìm nghỉm làm nức lòng người. Những chiến công oanh liệt của Trung đoàn 10, sau này được in thành sách với tựa đề: "Đoàn 10 rừng Sác anh hùng." (xuất bản năm 1986, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh).
Năm 1987, ông được nghỉ hưu với quân hàm Trung tá. Chân ướt, chân ráo về với đất Quảng Hưng lắm cỏ dại và cát trắng, người Anh hùng rừng Sác năm xưa thoát nghèo bằng cách khai hoang, phục hóa hơn 1,5 mẫu ruộng, trong đó có bốn sào ruộng khoán của hợp tác xã. Nhờ đó, cuộc sống gia đình của ông cũng ổn định dần qua năm tháng.
Chia tay ông nhưng chúng tôi không quên những lời ông đã dặn dò “Các bác đã cống hiến tất cả cho đất nước. Vậy các cháu cũng phải cố gắng để làm tốt và xứng đáng là lớp kế cận tương lai của đất nước”./.
(Báo Tin Tức/Vietnam+)