Vùng biển Việt Nam là loại biển mở nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, làmột trong những trục hàng hải có lưu lượng tàu bè qua lại rất lớn, trong đó 70%là tàu chở dầu.
Tuy chưa xếp vào biển có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, nhưng cũng được cảnhbáo là có nguy cơ ô nhiễm cao trong tương lai, vì công nghiệp đang phát triểnmạnh ở các vùng duyên hải, cộng thêm hoạt động thăm dò, khai thác, vận chuyểndầu khí trong khu vực ngày càng gia tăng, trong khi nơi đây lại là khu vựcthường xuyên xảy ra những thiên tai nguy hiểm trên biển.
Theo đánh giá của Viện Khoa học và Tài nguyên Môi trường biển-Viện Khoa học vàCông nghệ Việt Nam: Từ năm 1989 đến nay, vùng biển Việt Nam có khoảng 100 vụ tràndầu do tai nạn tàu, các vụ tai nạn này đều đổ ra biển từ vài chục đến hàng trămtấn dầu. Những vụ tràn dầu thường xảy ra vào tháng 3 và tháng 4 hàng năm ở MiềnTrung; từ tháng 5 đến tháng 6 ở Miền Bắc.
Thống kê cho thấy, giai đoạn từ năm 1992-2008, lượng dầu tràn trên biển Việt Namxuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Cụ thể như những vụ tràn dầu với lượngtừ 7-700 tấn thường tập trung chủ yếu do tàu mắc cạn. Còn các vụ tràn dầu với sốlượng lớn hơn 700 tấn chủ yếu là do quá trình vận chuyển dầu và va chạm tàu trênbiển.
Sự cố tràn dầu gây ô nhiễm môi trường biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hệsinh thái. Đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát,đầm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm khả năng sức chống đỡ, tính linhhoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Hàm lượng dầu trong nước tăngcao, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi ôxy giữa không khí và nước, làmgiảm oxy trong nước, làm cán cân điều hòa oxy trong hệ sinh thái bị đảo lộn.
Ngoài ra, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái, có thể gây suy vonghệ sinh thái. Bởi dầu chứa nhiều thành phần khác nhau, làm biến đổi, phá hủy cấutrúc tế bào sinh vật, có khi gây chết cả quần thể. Dầu thấm vào cát, bùn ở venbiển có thể ảnh hưởng trong một thời gian rất dài. Đã có nhiều trường hợp cácloài sinh vật chết hàng loạt do tác động của sự cố tràn dầu.
Điều đáng báo động nữa là dầu lan trên biển và dạt vào bờ trong thời gian dàikhông được thu gom sẽ làm suy giảm lượng cá thể sinh vật, gây thiệt hại chongành khai thác và nuôi trồng thủy, hải sản. Dầu gây ô nhiễm môi trường nước làmcá chết hàng loạt do thiếu ôxy hòa tan. Dầu bám vào đất, kè đá, các bờ đảo làmmất mỹ quan, gây mùi khó chịu đẫn đến doanh thu của ngành du lịch cũng bị thiệthại nặng nề. Nạn tràn dầu còn làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cảng cá, cơ sởđóng mới và sửa chữa tàu biển. Do dầu trôi nổi làm hỏng máy móc, thiết bị khaithác tài nguyên và vận chuyển đường thủy.
Qua khảo sát tại cảng cá Lạch Bạng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nơi thườngxuyên là chỗ neo đậu của hàng nghìn tàu cá từ nhiều vùng, miền khác nhau. Tìnhtrạng ô nhiễm môi trường nước ở đây do cặn dầu của những con tàu “vô tư” xả rađen đặc một vùng rộng lớn.
Nếu như 10 năm về trước vùng cửa biển này là nơi cóhệ sinh thái rừng ngập mặn rất phong phú, thì bây giờ hầu như toàn bộ diện tíchrừng ngập mặn do bị nhiễm dầu đang chết dần chết mòn, dẫn đến động, thực vậtnước lợ hầu như tuyệt chủng. Nơi đây cũng liên tục xảy ra sự cố ô nhiễm dầu làmhàng trăm ha nuôi trồng thủy sản bị mất trắng, nên nhiều hộ buộc phải bỏ nghề.
Do đó, sự cố môi trường tràn dầu có thể xem là một trong những dạng sự cố gây ratổn thất kinh tế lớn nhất, trong các loại sự cố môi trường do con người gây ra.Hiện việc xác định vị trí dầu tràn và khắc phục sự cố này ở Việt Nam còn nhiềuhạn chế, cả về cơ sở pháp luật và các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuậtchuyên dụng để khắc phục ô nhiễm tràn dầu./.
Văn Hào (TTXVN)