Công bố dòng chảy tối thiểu hạ lưu các công trình thủy lợi, thủy điện

Trong số 511 công trình thủy điện, thủy lợi vừa được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố có 529 hồ chứa, đập dâng của 487 công trình thủy điện; 26 hồ chứa, đập dâng của 24 công trình thủy lợi.
Công bố dòng chảy tối thiểu hạ lưu các công trình thủy lợi, thủy điện ảnh 1Ảnh minh họa. (Nguồn: Hùng Võ/Vietnam+)

Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa ban hành quyết định số 1354/QĐ-BTNMT về việc “công bố giá trị dòng chảy tối thiểu ở hạ lưu các hồ chứa, đập dâng của các công trình thủy lợi, thủy điện” tại các lưu vực sông trên cả nước.

Quyết định trên được Thứ trưởng Lê Công Thành ký ban hành ngày 12/7/2021 kèm theo Danh mục giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập và sau công trình ở hạ lưu gồm 555 hồ chứa, đập dâng của 511 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó có 529 hồ chứa, đập dâng của 487 công trình thủy điện; 26 hồ chứa, đập dâng của 24 công trình thủy lợi.

Theo đó, tại lưu vực sông Bằng Giang-Kỳ Cùng nằm trên địa bàn 3 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn có 12 công trình thủy điện và 1 công trình thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Nà Lòa, Nà Lâu (tỉnh Cao Bằng) có giá trị dòng chảy sau đập thấp nhất với 0,5m3/giây; thủy điện có giá trị dòng chảy sau đập cao nhất là Hòa Thuận và Tiên Thành (Cao Bằng) 9,5m3/giây.

[Bắt đầu tìm kiếm tại Nhà máy Thủy điện Rào Trăng 3 giai đoạn 5]

Tương tự, tại lưu vực sông Hồng-Thái Bình có 227 công trình thủy điện, thủy lợi nằm trên địa bàn các tỉnh Bắc Kạn, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Hà Giang, Hòa Bình. Đây cũng là lưu vực có nhiều công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất như: Thủy điện Suối Chút 2 (tỉnh Lào Cai) 0,01m3/giây; Nậm Cát (tỉnh Lai Châu) 0,01m3/giây...

Các công trình có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập cao nhất là thủy điện Sông Lô 8A tại tỉnh Tuyên Quang với 60,25m3/giây; thủy điện Sông Lô 6 nằm trên địa bàn 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang 46,3m3/giây; thủy điện Pắc Ma tại tỉnh Lai Châu với 55,6m3/giây.

Tại khu vực Sông Mã có 24 công trình thủy điện, thủy lợi nằm trên địa bàn các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Thanh Hóa, Hòa Bình, Nghệ An. Trong đó, công trình thủy điện Trí Năng (tỉnh Thanh Hóa) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,05m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Mường Hung (tỉnh Sơn La) với 21,2m3/giây.

Khu vực sông Cả trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh có 21 công trình thủy điện. Trong đó, công trình thủy điện Ca Nan 1 (tỉnh Nghệ An) có giá trị dòng chảy tối thiểu sau đập thấp nhất với 0,3m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Khe Bố với 95,5m3/giây.

Khu vực sông Hương tại Thừa Thiên Huế có 10 công trình thủy điện. Trong đó, công trình thủy điện A Lin B1 có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,17m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Rào Trăng 4 với 1,16m3/giây.

Lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn nằm trên địa bàn hai tỉnh Quảng Nam và Kon Tum có 46 công trình thủy điện. Trong đó, công trình thủy điện Tầm Phục (tỉnh Quảng Nam) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,03m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Sông Tranh 4 với 9,85m3/giây.

Khu vực sông Trà Khúc tại hai tỉnh Kon Tum và Quảng Ngãi có 9 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Đắk Lô (tỉnh Kon Tum) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,05m3/giây. Công trình đập thủy lợi có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là đập Thạch Nham (tỉnh Quảng Ngãi) với 10m3/giây.

Công bố dòng chảy tối thiểu hạ lưu các công trình thủy lợi, thủy điện ảnh 2Ảnh chỉ có tính chất minh họa. (Ảnh: Đỗ Trưởng/TTXVN)

Lưu vực sông Kôn-Hà Thành nằm trên địa bàn hai tỉnh Bình Định và Gia Lai có 5 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Ken Lút Hạ (tỉnh Bình Định) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,05m3/giây. Công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Vĩnh Sơn 5 với 3,4m3/giây.

Khu vực sông Sê San (Mekong) nằm trên địa bàn hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum có 43 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy điện Đăk Ter 1 (tỉnh Kon Tum) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,2m3/giây. Công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Sê San 3A với 83,5m3/giây.

Khu vực sông Ba nằm trên địa bàn các tỉnh Gia Lai, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắk có 22 công trình thủy điện, thủy lợi. Trong đó, công trình thủy lợi hồ Ia Ring (tỉnh Gia Lai) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,12m3/giây. Công trình thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Đăk Srông 3B với 4,24m3/giây.

Khu vực sông Srê Pốk (Mekong) nằm trên địa bàn các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng có 19 công trình thủy điện. Trong đó, thủy điện Đăk Mê 1 (tỉnh Lâm Đồng) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,11m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Krông Nô 3 với 3,9m3/giây.

Khu vực sông Đồng Nai nằm trên địa bàn các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận, Ninh Thuận, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước có 46 công trình thủy điện. Trong đó, thủy điện Đasiat, Đại Ngà (tỉnh Lâm Đồng), Bù Cà Mau (tỉnh Bình Phước) có giá trị dòng chảy tối thiểu thấp nhất 0,3m3/giây. Thủy điện có giá trị dòng chảy tối thiểu cao nhất là Đồng Nai 5 với 4,55m3/giây.

Thông tin với phóng viên Báo Điện tử VietnamPlus, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết đây là lần đầu tiên Việt Nam công bố nội dung nói trên. Việc này nhằm bảo đảm hạn chế tối đa việc tạo ra những đoạn sông khô cạn; giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái thủy sinh và các hoạt động khai thác, sử dụng của người dân phía hạ lưu phụ thuộc vào nguồn nước trên các sông, suối có xây dựng hồ chứa.

Bên cạnh đó, việc công bố cũng nhằm thay đổi nhận thức của các cơ quản quản lý ở các địa phương và các chủ hồ trong việc bảo vệ nguồn nước và yêu cầu sử dụng nước ở hạ du./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục