Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã lai tạo thành công giống chè mới LDP2 có năng suất, chất lượng cao, thích ứng điều kiện của Việt Nam, tăng sức cạnh tranh sản phẩm chè trên thị trường.
Hiện nay, giống chè mới này đã có diện tích khoảng 13.000ha và có mặt tại hầu hết các tỉnh trồng chè của Việt Nam như Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Nghệ An...
Tiến sỹ Đỗ Văn Ngọc, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết nhóm đã sử dụng phương pháp lai hữu tính, chọn đúng cặp bố mẹ kết hợp phương pháp chọn lọc cá thể để tạo giống mới, đồng thời sử dụng công nghệ nhân giống vô tính bằng phương pháp giâm cành, đảm bảo tính thuần nhất của giống chè mới do Việt Nam tạo ra.
Giống LDP2 là giống được chọn từ cá thể lai giữa giống Đại Bạch Trà (mẹ) có nguồn gốc Trung Quốc với giống chè PH1 (bố) có nguồn gốc Assam Ấn Độ năm 1980. Sau hơn 10 năm nghiên cứu, trong đó trên 10 năm khảo nghiệm, giống LDP2 là giống có năng suất cao, chất lượng khá, có tính thích ứng rộng, thích hợp cho chế biến chè xanh, chè đen.
Đến nay diện tích giống LDP2 đạt trên 10.000ha, được người sản xuất đánh giá có nhiều ưu điểm và xác định là giống trồng thay thế giống cũ nhằm nâng cao năng suất và chất lượng chè Việt Nam.
Theo thống kê của Hiệp hội chè Việt Nam, năm 2009, diện tích chè cả nước gần 135.000ha, năng suất chè bình quân đạt 6,8 tấn/ha. So với năm 2000, diện tích chè mới có 80.000ha, năng suất 3,6 tấn thì đến nay diện tích đã tăng 1,68 lần và năng suất tăng 1,88 lần.
Việc phát triển giống chè mới đi đôi với mở rộng diện tích chè đã tạo việc làm cho hàng triệu lao động vùng trung du và miền núi, nâng cao thu nhập, cải thiện và ổn định đời sống của người làm chè, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng trung du và miền núi. Người dân trồng chè không đốt rừng làm nương nên đã góp phần bảo vệ rừng đầu nguồn./.
Hiện nay, giống chè mới này đã có diện tích khoảng 13.000ha và có mặt tại hầu hết các tỉnh trồng chè của Việt Nam như Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Nghệ An...
Tiến sỹ Đỗ Văn Ngọc, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết nhóm đã sử dụng phương pháp lai hữu tính, chọn đúng cặp bố mẹ kết hợp phương pháp chọn lọc cá thể để tạo giống mới, đồng thời sử dụng công nghệ nhân giống vô tính bằng phương pháp giâm cành, đảm bảo tính thuần nhất của giống chè mới do Việt Nam tạo ra.
Giống LDP2 là giống được chọn từ cá thể lai giữa giống Đại Bạch Trà (mẹ) có nguồn gốc Trung Quốc với giống chè PH1 (bố) có nguồn gốc Assam Ấn Độ năm 1980. Sau hơn 10 năm nghiên cứu, trong đó trên 10 năm khảo nghiệm, giống LDP2 là giống có năng suất cao, chất lượng khá, có tính thích ứng rộng, thích hợp cho chế biến chè xanh, chè đen.
Đến nay diện tích giống LDP2 đạt trên 10.000ha, được người sản xuất đánh giá có nhiều ưu điểm và xác định là giống trồng thay thế giống cũ nhằm nâng cao năng suất và chất lượng chè Việt Nam.
Theo thống kê của Hiệp hội chè Việt Nam, năm 2009, diện tích chè cả nước gần 135.000ha, năng suất chè bình quân đạt 6,8 tấn/ha. So với năm 2000, diện tích chè mới có 80.000ha, năng suất 3,6 tấn thì đến nay diện tích đã tăng 1,68 lần và năng suất tăng 1,88 lần.
Việc phát triển giống chè mới đi đôi với mở rộng diện tích chè đã tạo việc làm cho hàng triệu lao động vùng trung du và miền núi, nâng cao thu nhập, cải thiện và ổn định đời sống của người làm chè, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế vùng trung du và miền núi. Người dân trồng chè không đốt rừng làm nương nên đã góp phần bảo vệ rừng đầu nguồn./.
Nguyễn Hồng Điệp (TTXVN/Vietnam+)