Người Mông là nhóm dân tộc thiểu số đông thứ tư tại Việt Nam, góp phần vào sự đa dạng và bản sắc của Việt Nam. Trong các di sản người Mông, sản phẩm thủ công như trang phục, đồ lưu niệm đã giữ một vị trí đặc biệt, vừa giúp lưu trữ tri thức và truyền thống của tộc người, vừa giúp phát triển du lịch.
Tuy nhiên, bên cạnh thành công đưa nghề thổ cẩm thành sinh kế, người Mông vẫn đối diện nguy cơ mai một di sản, chưa có phương án phát triển bền vững để vừa bảo tồn và vừa phát huy.
Khó khăn trong việc duy trì nghề
Mỗi nhóm người Mông tại các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có những họa tiết hoa văn và kỹ thuật thêu riêng. Mỗi họa tiết không đơn thuần chỉ để trang trí, mà là hệ thống những biểu tượng văn hóa được tích lũy, chắt lọc và truyền dạy qua nhiều thế hệ phụ nữ.
Cùng với sự phát triển của du lịch và nỗ lực từ cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và cộng đồng, nghề thổ cẩm hiện nay đã trở thành sinh kế cho người Mông nhiều nơi.
Tuy vậy không dễ để thực hiện các công đoạn một cách truyền thống. Để cho ra một trang phục truyền thống hoàn chỉnh, người Mông cần trải qua ít nhất 40 công đoạn từ trồng lanh, tước sợi, đạp lanh, se sợi, dệt vải đến thêu hoa văn, nhuộm chàm và tạo nếp…
Mỗi quy trình cần thời gian và kinh nghiệm cao, đòi hỏi người làm phải nắm rõ bí quyết ví dụ như pha chế nguyên liệu, xử lý màu thông qua việc nhuộm và phơi nhiều lần, làm mềm vải…
Các công đoạn không chỉ đòi hỏi kinh nghiệm, khả năng làm chủ kỹ năng và chất liệu, mà còn mất nhiều thời gian và sức lực. Từ đây phát sinh nhu cầu có sự hỗ trợ từ khoa học công nghệ, song song với sự giám sát từ nghệ nhân.
Chị Sùng Thị Dính, một thành viên hợp tác xã vải lanh truyền thống Lùng Tám (Hà Giang cũ, nay thuộc Tuyên Quang) cho biết vào mùa cao điểm du lịch, mỗi ngày các chị em có thể bán được 3-4 triệu đồng từ các sản phẩm thủ công. Thế nhưng lớp trẻ trong làng chì còn 9 người theo nghề.
“Có những công đoạn như đạp lanh cho mềm và bóng rất mệt, nên chúng tôi rất muốn có kỹ sư hỗ trợ về máy móc cho chị em đỡ vất vả. Mong muốn lớn nhất của chúng tôi là được hỗ trợ về mặt kỹ thuật,” chị Sùng Thị Dính chia sẻ.
Ở những địa phương như xã Chế Cu Nha cũ (nay thuộc xã Mù Cang Chải), Yên Bái có nghề thổ cẩm truyền thống đặc sắc, nhưng ở xa điểm du lịch nên ít có khách du lịch ghé thăm. Thu nhập của phụ nữ người Mông tại đây chủ yếu đến từ đơn đặt hàng số lượng lớn, rất ít đến từ các chợ phiên mà mỗi tuần chỉ tổ chức một lần.
Bà Lý Thị Ninh, một người Mông Hoa ở khu vực này chia sẻ khi có đơn hàng, thu nhập mỗi người có thể tăng từ 2-3 triệu một tháng. Thế nhưng hiện nay làng có 45 người biết làm nghề nhưng chỉ 4-5 người tập trung làm. Nguyên nhân là sau COVID, số đơn hàng giản đi rất nhiều.
Vì vậy mỗi khi có dịp tới Hà Nội để quảng bá văn hóa người Mông, bà rất hào hứng tiếp thị sản phẩm đến các du khách từ cả trong và ngoài nước, đặc biệt là du khách nước ngoài - những người sẵn sàng chi tiền triệu cho sản phẩm thủ công của các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Bảo tồn nghề dệt thổ cẩm thế nào?
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Triệu Văn Bình - Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc khẳng định việc nghiên cứu, bảo vệ và phát triển trang phục truyền thống là một nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Trong khi đó việc khai thác tiềm năng của trang phục truyền thống người Mông đang gặp nhiều thách thức từ nội tại cộng đồng và từ áp lực thị trường.
Ông Bình chỉ ra tại các cộng đồng người Mông, tỷ lệ người trẻ dưới 30 tuổi có khả năng dệt, nhuộm, thêu truyền thống đang giảm mạnh so với thế hệ trước. Chủ yếu chỉ còn các nghệ nhân trên 50 tuổi làm được các công đoạn phức tạp.
Cùng với đó việc dùng các loại chỉ, sợi và phẩm màu công nghiệp thay thế cho nguyên liệu tự nhiên đang làm giảm chất lượng và mất đi tính nguyên bản của trang phục.
“Màu sắc trở nên rực rỡ và thiếu chiều sâu, không còn phản ánh đúng triết lý màu sắc truyền thống. Ví dụ màu đen chàm truyền thống có độ bền và chiều sâu hơn hẳn màu đen công nghiệp,” ông Bình cho biết.
Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc cũng cho rằng tình trạng sao chép, thương mại hóa thiếu kiểm soát làm suy giảm giá trị di sản. Sự thiếu vắng cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ cộng đồng tạo điều kiện cho các sản phẩm giả mạo xuất hiện nhan nhản và giảm tính linh thiêng của sản phẩm.
Nhiều nhà thiết kế, thương hiệu lớn khai thác mà không có sự hợp tác chính thức hay cơ chế chia sẻ lợi ích… khiến cộng đồng chủ thể văn hóa gặp bất lợi trong việc bảo vệ và hưởng lợi từ di sản của mình.
Từ đây, chuyên gia đề xuất đưa trang phục ra khỏi không gian lễ hội và đưa vào đời sống hiện đại, mở rộng thị trường tiêu thụ với sự cẩn trọng. Các giải pháp được đề xuất bao gồm thương hiệu hóa và thiết kế ứng dụng, phát triển sản phẩm lưu niệm cao cấp với mỗi sản phẩm có chứng nhận nguồn gốc của cộng đồng, xây dựng các cửa hàng văn hóa giúp nâng cao hình ảnh và giá trị thương mại của sản phẩm.
Ông cũng nhấn mạnh việc tăng cường cơ chế bảo vệ và chia sẻ lợi ích công bằng, thông qua bảo hộ sở hữu trí tuệ cộng đồng, áp dụng nguyên tắc thương mại công bằng; thành lập quỹ tái đầu tư văn hóa để hỗ trợ các mục đích như tài trợ cho các lớp truyền nghề, đầu tư cho nguyên liệu truyền thống, tôn vinh nghệ nhân…
Các giải pháp ứng dụng công nghệ hiện đại cũng cần được áp dụng để truyền thông, thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế cũng như giúp các công đoạn như truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Cán bộ Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam - Thạc sỹ Lê Thị Mai Oanh đề xuất nhiều giải pháp, trong đó gồm: Xây dựng bộ tiêu chí về tính nguyên bản, quy trình, nguyên vật liệu; nghiên cứu và số hóa tri thức; bảo tồn tại chỗ và hỗ trợ cộng đồng...
Bà Mai Oanh cũng đề xuất các nhóm giải pháp về giáo dục-truyền dạy-tái sinh sinh kế cộng đồng để tập trung vào con người và tạo thê hệ truyền thừa. Song song với đó là nhóm giải pháp về phát triển sản phẩm và du lịch, các chính sách và cơ chế hỗ trợ toàn diện./.