Lời giải cho 'bài toán' quản lý, phát triển bền vững tài nguyên nước

Theo Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, phạm vi quản lý của Luật Tài nguyên nước không dừng lại ở những nơi có nước mà phải bao trùm “vòng đời” của nước.
Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) quy định về quản lý, bảo vệ khai thác, sử dụng tài nguyên nước. (Nguồn ảnh: TTXVN)

Phạm vi quản lý của Luật Tài nguyên nước không dừng lại ở những nơi có nước mà phải bao trùm “vòng đời” của nước. Đây là yêu cầu của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp ngày 27/7, với một số bộ, ngành về việc tiếp thu, giải trình ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.

Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong quá trình xây dựng dự thảo Luật, Bộ đã cụ thể hóa các quy định về quản lý tài nguyên nước đối với nước ngọt, nước mặn và nước lợ; quy định rõ hơn các giải pháp phòng chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; rà soát, bổ sung điều chỉnh một số thuật ngữ chuyên ngành đảm bảo đầy đủ, thống nhất, dễ hiểu.

Bên cạnh đó, Bộ cũng đã nghiên cứu bổ sung các chức năng về phòng chống lũ, điều hòa chống úng chống ngập đô thị; trách nhiệm quản lý, phân cấp phân quyền, tách bạch quản lý nhà nước giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương...; đồng thời rà soát các giải pháp sử dụng nước khoa học, tiết kiệm, tiếp cận theo hướng tuần hoàn nguồn nước.

Sau khi nhận được các ý kiến góp ý của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, dự thảo Luật tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung các quy định về bảo vệ tài nguyên nước và phục hồi nguồn nước; hoạt động điều hòa, phân phối tài nguyên nước, kịch bản nguồn nước và trách nhiệm của các bộ liên quan; đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước; khuyến khích, ưu tiên sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước; trách nhiệm quản lý tài nguyên nước...

Tại cuộc họp, lãnh đạo các bộ, ngành kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường bổ sung đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật Tài nguyên nước; làm rõ phạm vi quản lý nhà nước về cấp nước sinh hoạt đô thị và nông thôn; xác định đối tượng, quy mô cấp phép, đăng ký khai thác tài nguyên nước cũng như thẩm quyền và phân cấp thẩm quyền của cơ quan từng cấp...

Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà cho rằng, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được các đại biểu Quốc hội đồng thuận khá cao khi thảo luận tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, nhất là những vấn đề còn ý kiến khác nhau như phân định chức năng, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi điều chỉnh... đã được nhận thức đầy đủ. Các ý kiến đóng góp trí tuệ, xác đáng của đại biểu Quốc hội đã được tiếp thu, thống nhất để dự thảo Luật rõ ràng, khúc chiết, đầy đủ và sâu sắc hơn.

[Quản lý tài nguyên nước: Cần quy định rõ trách nhiệm của các bộ ngành]

Theo Phó Thủ tướng, trên thực tế, Việt Nam là quốc gia khan hiếm nước nhưng các cấp, ngành và người dân chưa nhận thức đúng về vấn đề này nên tình trạng ô nhiễm nguồn nước, tác hại liên quan đến nước ngày càng tăng. Bên cạnh đó là những thách thức từ hiện tượng biến đổi khí hậu, tác động kép của phát triển kinh tế, hoạt động kinh tế-xã hội của các nước có chung biên giới, lưu vực sông.

Về một số vấn đề cụ thể, Phó Thủ tướng đề nghị cơ quan soạn thảo, là Bộ Tài nguyên và Môi trường, quán triệt quan điểm, Luật Tài nguyên nước phải điều chỉnh tất cả các loại nước (nước mặt, nước sông suối, nước ngầm, nước ngọt, nước lợ, nước mặn, nước thải...), sau đó tùy theo tính chất, giá trị của từng loại nước để có hình thức quản lý phù hợp thuộc thẩm quyền, chuyên môn của các bộ, ngành. Phạm vi quản lý của Luật không dừng lại ở những nơi có nước mà phải bao trùm “vòng đời” của nước.

“Luật Tài nguyên nước phải thể chế hóa những thỏa thuận Việt Nam tham gia về quản lý, khai thác, sử dụng nguồn nước xuyên quốc gia, thực hiện chiến lược tài nguyên nước quốc gia,” Phó Thủ tướng lưu ý.

Phó Thủ tướng yêu cầu phân định rõ chức năng quản lý tài nguyên nước (xây dựng chiến lược, quy hoạch, chính sách pháp luật, thanh tra, kiểm tra, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước) và hoạt động khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước cho các mục đích thủy lợi, thủy sản, nông nghiệp, thủy điện...

“Công tác quản lý tài nguyên nước phải tiếp cận tổng hợp với các nguồn nước liên tỉnh, liên quốc gia, theo cơ chế liên ngành, liên vùng; thực hiện phân cấp triệt để; đẩy mạnh cải cách hành chính thông qua chuyển đổi số, tích hợp nhiều quy trình, dùng chung số liệu, thông tin khi giải quyết các thủ tục hành chính về quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước,” Phó Thủ tướng nói.

Luật cần có quy định chặt chẽ hoạt động quan trắc, giám sát chất lượng nguồn nước thống nhất, tránh lãng phí và có dữ liệu dùng chung; chú ý bảo vệ hành lang hồ, đập liên quan đến cấp nước sinh hoạt; ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn về nước dùng sinh hoạt, hoạt động y tế, nông nghiệp, thủy sản...

Nhấn mạnh việc bảo đảm quyền tiếp cận nước cho mọi người dân, Phó Thủ tướng nêu rõ, giá dịch vụ cung cấp nước phải được tính đúng, tính đủ; đồng thời đánh giá tác động đối với người dùng nước, nhất là đối tượng yếu thế, khó khăn, người nghèo, từ đó để làm cơ sở bố trí ngân sách Nhà nước hỗ trợ, bảo đảm công bằng, bình đẳng tiếp cận nước.

Hoạt động quản lý, phân bổ tài nguyên nước cần căn cứ vào kịch bản và diễn biến của biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan liên quan đến nước để có phương thức điều phối, phân bổ cho các mục đích sử dụng khác nhau, trong đó có định hướng phát triển các ngành kinh tế và ưu tiên hoạt động thiết yếu.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ, cải thiện, phát triển nguồn nước, Phó Thủ tướng nêu, dự thảo Luật cần làm rõ chính sách bảo vệ, phát triển tài nguyên nước đối với những vùng khan hiếm nước, không có nước mặt, không có nước ngầm hoặc nguồn nước ngầm hạn chế như các đảo hay những khu vực sụt giảm, ô nhiễm nước ngầm do khai thác quá mức.

Mục tiêu đặt ra là kiểm soát sự cân bằng, bổ sung, bảo vệ nguồn nước ngầm. Cùng với đó là kết hợp kinh tế tuần hoàn và cải thiện nguồn nước, đưa ra các quy chuẩn, tiêu chuẩn tái chế nước, xử lý nước thải trước khi đưa trở lại môi trường.

“Luật Tài nguyên nước quy định các chính sách bảo vệ nguồn nước, quyền tiếp cận nước bình đẳng, sử dụng nước tiết kiệm...; còn công cụ thực hiện vẫn phải tuân thủ các luật chuyên ngành về thuế, quy hoạch, xây dựng... tránh chồng chéo,” Phó Thủ tướng lưu ý thêm./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục