Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú trọng đến sự nghiệp trồng người. Với tinh thần “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người,” Người chỉ rõ mục tiêu của chiến lược “trồng người” là “dạy dỗ con em của Nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà.”
Thấm nhuần lời dạy ấy, trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, Đảng, Nhà nước luôn chú trọng tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để đưa đất nước vững bước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Nhằm thể chế hóa sớm nhất các chủ trương, nghị quyết của Đảng về vấn đề này, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, hàng loạt dự án luật, nghị quyết được Quốc hội thảo luận, xem xét thông qua. Đặc biệt trong số đó là 9 dự án luật, nghị quyết, chương trình mục tiêu quốc gia với các cơ chế, chính sách đột phá, chưa từng có về giáo dục và y tế - hai lĩnh vực thiết yếu nhất nhằm chăm sóc sức khỏe toàn diện về thể chất, tinh thần và phát triển năng lực, nâng cao tri thức, rèn luyện tư tưởng, đạo đức, lối sống cho người dân ở mọi trình độ, lứa tuổi.
Ở lĩnh vực giáo dục đào tạo, Quốc hội đã thông qua ba dự án luật gồm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.
Theo đó, cả nước sẽ thực hiện phổ cập giáo dục mở rộng từ mầm non 3 tuổi thay vì 5 tuổi như trước đây; phổ cập giáo dục trung học phổ thông từ 2035; miễn học phí; cung cấp miễn phí sách giáo khoa từ năm 2030. Chương trình giáo dục phổ thông được bổ sung các nội dung mới của thời đại mới như trí tuệ nhân tạo, giáo dục STEM… với các mô hình mới như trường học thông minh… Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học hướng đến chuẩn quốc tế. Thành lập quỹ học bổng quốc gia để không sinh viên nào bị bỏ lại phía sau…
Ở lĩnh vực y tế, Quốc hội đã thông qua Luật Dân số; Luật Phòng bệnh; Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân; Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.
Như vậy, Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới ban hành luật riêng về vấn đề dân số với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống, chăm sóc sức khỏe người dân từ khi còn trong bụng mẹ đến lúc về già với nhiều chính sách chưa từng có như: Địa phương hỗ trợ chi phí khám sức khoẻ tiền hôn nhân; Nhà nước hỗ trợ khám sàng lọc trước sinh và sơ sinh; miễn phí khám khám sức khỏe định kỳ ít nhất một lần mỗi năm; miễn viện phí theo lộ trình đến 2030; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và nâng cao chất lượng đội ngũ y bác sỹ để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt là y tế cơ sở - nơi khám chữa bệnh ban đầu và gần với người dân nhất…
Cũng theo các quyết sách của Quốc hội khóa XV, trong 5 năm tới, Nhà nước sẽ đầu tư hơn 88.600 tỷ đồng để nâng cao sức khỏe Nhân dân và hơn 174.000 tỷ đồng để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Tổng mức đầu tư cho giáo dục đến năm 2035 là trên 580.000 tỷ đồng…
Theo Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, việc thảo luận và thông qua các luật, nghị quyết, chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, giáo dục đã thể hiện sự làm việc nghiêm túc, hết sức nỗ lực của Quốc hội khi thời gian hạn chế. Các luật, nghị quyết, chương trình mục tiêu quốc gia đã kịp thời thể chế hóa các nghị quyết của Bộ Chính trị như Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phát phát triển giáo dục đào tạo, Nghị quyết 72-NQ/TW về về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân… tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc triển khai các nghị quyết trên thực tiễn, hướng tới mục tiêu vì chất lượng cuộc sống tốt hơn cho người dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Các luật và nghị quyết được Quốc hội thông qua cũng đã tiếp tục thể chế hóa quan điểm nhân văn xuyên suốt của Đảng trong 95 năm qua: “Đặt con người ở vị trí trung tâm của mọi chiến lược phát triển,” “vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân,” quan điểm “lấy dân là gốc” và đất nước muốn phát triển phải chăm lo từ “gốc.”
Không chỉ nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý, các đại biểu Quốc hội cũng chỉ rõ các giải pháp để sau khi được ban hành, các luật, nghị quyết, chương trình mục tiêu quốc gia sẽ được triển khai hiệu quả, mang lại những chuyển biến thực sự trong đời sống của người dân.
Đây cũng là những vấn đề được thể hiện trong chùm bài: “Họp Diên hồng”: Những quyết sách vì lợi ích trăm năm.
Bài 1: Nâng chất lượng nhân lực Việt: Điều kiện tiên quyết để đất nước vươn mình
Phát biểu tại phiên thảo luận tổ ngày 25/11, Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Tô Lâm một lần nữa khẳng định quan điểm của Đảng: Phát triển nguồn nhân lực là một trong ba trọng tâm đột phá để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới. Tổng Bí thư nhấn mạnh: Để phát triển nguồn nhân lực, y tế và giáo dục là những trụ cột quan trọng. Mục tiêu là chăm lo cho con người, có nguồn nhân lực tốt, sức khỏe và bản lĩnh, tư duy kiến thức, tri thức để xây dựng và phát triển đất nước.
Để đạt mục tiêu, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ ba yếu tố cần đầu tư đồng bộ để phát triển giáo dục và y tế gồm: Cơ sở hạ tầng; đội ngũ thầy cô, thầy thuốc; chương trình đào tạo. Cơ sở hạ tầng phải đảm bảo. Đội ngũ phải chuẩn, được đào tạo bài bản, có đạo đức, nhân cách. Chương trình đào tạo phải luôn cập nhật, chuyên sâu, phù hợp tốc độ thay đổi của tri thức khoa học.
Trên thực tế, ba yếu tố này đều đang là thách thức, là rào cản với cả ngành giáo dục và y tế.
Đột phá phát triển giáo dục: Không thể chậm trễ
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn cho hay, dù đã đạt nhiều thành quả đáng khích lệ, giáo dục Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, từ cơ sở vật chất khiêm tốn đến thiếu đội ngũ giáo viên, chương trình giáo dục hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo và cơ hội tiếp cận của người học.
Về cơ sở vật chất, tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp học còn thấp, bình quân đạt khoảng 83%, nhiều địa phương khó khăn thậm chí chỉ đạt khoảng 50%. Cả nước vẫn còn gần 3.000 phòng học phải đi nhờ, mượn. Nhà công vụ cho giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu. Phòng học bộ môn, trang thiết bị dạy học tối thiểu mới đạt khoảng trên 50%.
Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia trên toàn quốc cao nhất chỉ đạt 65% với bậc trung học cơ sở, tỷ lệ này giảm dần ở các bậc học còn lại, tiểu học là 63%, mầm non 61,2% và trung học phổ thông chỉ đạt 48%.
Về nhân lực, thiếu giáo viên là vấn đề nan giải của ngành trong hàng chục năm qua nhưng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến tháng 4/2025, ngành giáo dục còn thiếu 102.097 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông trong biên chế so với định mức. Tỷ lệ giáo viên ở bậc mầm non chỉ đạt khoảng 75%, ở các bậc học khác cũng vẫn đang thiếu trầm trọng trên khắp cả nước.
Thiếu giáo viên và cơ sở vật chất chưa đảm bảo đã ảnh hưởng đến cơ hội tiếp cận giáo dục của người học. Hiện còn khoảng 300.000 trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 4 tuổi chưa được đi học. Trong khi đó, ở bậc trung học cơ sở, học sinh phải đối diện với kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 vô cùng áp lực do số trường trung học phổ thông công lập quá ít so với nhu cầu.
Về chất lượng đào tạo, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho hay giáo dục phổ thông chưa hình thành rõ nét cho học sinh những năng lực cốt lõi như tư duy sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực số và ngoại ngữ; xu hướng lựa chọn ngành nghề còn chưa phát triển nhiều về nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự đáp ứng tốt yêu cầu của thị trường lao động, còn tụt hậu so với các nước phát triển.
Tại Nghị quyết 71, Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ nhiều hạn chế khác của ngành giáo dục như nền giáo dục nặng thi cử đã khiến bệnh thành tích trong giáo dục ngày càng nặng nề, nội dung giáo dục thiên lệch về các môn văn hóa trong khi giáo dục thể chất, nghệ thuật, giáo dục kỹ năng, lối sống, vấn đề dinh dưỡng và tâm lý học đường chưa được chú trọng đúng mức, không đạt mục tiêu giáo dục toàn diện…
Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng sống, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam.
Trong bài viết Tương lai cho thế hệ vươn mình, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, dù đã được nâng cao, nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với các quốc gia phát triển, đặc biệt là ở khả năng sáng tạo, năng suất lao động, kỹ năng thực hành và trình độ ngoại ngữ. Hiện Việt Nam đã nằm trong nhóm 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới, tuy nhiên năng suất lao động của ta hiện vẫn đứng thứ 117/181 nước/vùng lãnh thổ được thống kê, chỉ tương đương 11,4% so với Singapore, bằng 35,4% của Malaysia, chưa kể các quốc gia phát triển khác.
Vì “tương lai cho thế hệ vươn mình”
Để xây dựng nguồn chất lượng cao đủ sức “sánh vai với các cường quốc năm châu” cho đất nước, Nghị quyết 71 đã đặt ra các yêu cầu nội dung đào tạo mới cho ngành giáo dục.
Trước thực trạng trên, Nghị quyết số 71-NQ/TW về giải pháp đột phát phát triển giáo dục và đào tạo của Bộ Chính trị khẳng định: “Đất nước ta đang đứng trước vận hội lịch sử để phát triển bứt phá, yêu cầu xây dựng con người, xây dựng nguồn nhân lực đặt ra rất quan trọng và cấp bách, đòi hỏi phải đột phá phát triển giáo dục và đào tạo góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam mới có lòng yêu nước và tự hào dân tộc, đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, trình độ, sức khoẻ để đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới.”
Cấp bách đổi mới toàn diện y tế
Không chỉ về tri thức, sức khỏe cũng đang là vấn đề lớn ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi của Việt Nam cao hơn nhiều nước, chiều cao trung bình thấp hơn so với các nước trong khu vực.
Dân số Việt Nam hiện đã vượt qua ngưỡng 100 triệu người, là quốc gia có quy mô dân số lớn thứ 16 trên thế giới. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng nhanh, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,7 tuổi năm 2024, cao hơn nhiều quốc gia có cùng mức thu nhập bình quân đầu người nhưng thấp hơn 5-10 năm so với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức. Tuy nhiên, người dân sống thọ nhưng không sống khỏe. Năm 2024, dù tuổi thọ bình quân của Việt Nam đạt 74,7 nhưng số năm sống khỏe mạnh chỉ đạt 65,4 tuổi. Bình quân mỗi người cao tuổi mắc ba bệnh và đối diện với nguy cơ tàn phế do lão hóa. Chi phí y tế để điều trị bệnh mạn tính và chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi ước tính cao gấp 7-8 lần so với người trẻ, gây áp lực tài chính nặng nề lên hệ thống y tế công cộng.
Đáng lưu ý khi Việt Nam đang bước vào giai đoạn gánh nặng kép (người lao động trung niên vừa phải nuôi con nhỏ vừa phải chăm lo bố mẹ già), thời điểm nhạy cảm của dân số về sức khỏe. Bệnh không lây nhiễm chiếm gần 80% tổng số tử vong, hơn 40% tử vong xảy ra trước 70 tuổi - trong độ tuổi lao động.
Bà Trần Thị Trang - Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế) cho hay năm 2024, cả nước có 183,6 triệu lượt khám, chữa bệnh, tăng tăng 9,7 triệu lượt (5,6%) so với năm 2023; trong đó có khoảng 40 triệu người khám bảo hiểm y tế thường xuyên, trung bình mỗi người đi khám, chữa bệnh khoảng 4,5 lần/năm. Chi khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế toàn quốc là 139.122 tỷ đồng, tăng 18.107 tỷ đồng (tăng 15%) so với cùng kỳ năm 2023.
Trong hệ thống 4 tuyến y tế được phân cấp trước năm 2025, mặc dù số lượt khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế ở tuyến huyện cao nhất nhưng số chi ở tuyến tỉnh lại cao nhất. Ở tuyến tỉnh, trung bình khoảng 6,8 triệu lượt khám, chữa bệnh mỗi năm nhưng tỷ trọng chi từ Quỹ Bảo hiểm y tế chiếm 1/5 tổng chi.
Theo bà Trang, hiện tổng chi toàn xã hội cho chăm sóc sức khỏe so với GDP khoảng 7% và đạt khoảng 8% tổng chi ngân sách. Đặc biệt, gánh nặng chi phí y tế đối với người dân vẫn còn lớn. Người dân tự trả khoảng 40% chi phí, tỷ lệ cùng chi trả của một số đối tượng ước khoảng 21.905 tỷ đồng; phần Quỹ Bảo hiểm y tế chưa chi trả ước 24.800 tỷ đồng.
Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Vũ Mạnh Hà cho hay năm 2024, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế của Việt Nam đã đạt 94,29% dân số, mạng lưới khám, chữa bệnh rộng khắp đến cấp xã, năng lực chuyên môn của cấp chuyên sâu, cấp cơ bản, cấp ban đầu đều được nâng lên đáng kể, danh mục thuốc, thiết bị y tế thuộc phạm vi, quyền lợi của người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế ngày càng mở rộng.
“Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức lớn. Chi tiêu tiền túi của người dân ước tính khoảng trên 40% chi phí khám chữa bệnh, vẫn ở mức cao theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Nguy cơ nghèo hóa do bệnh tật vẫn hiện hữu, nhất là đối với người nghèo, nhóm yếu thế, người mắc bệnh mạn tính hoặc điều trị dài ngày. Áp lực tài chính lên hộ gia đình càng lớn nếu không có giải pháp mạnh mẽ từ chính sách công,” Thứ trưởng Bộ Y tế chỉ rõ.
Tổng Bí thư Tô Lâm: Cần coi trọng chăm sóc sức khỏe ban đầu và dự phòng
Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu cần coi trọng chăm sóc sức khỏe ban đầu và dự phòng, đồng thời cho rằng hiện công tác y tế còn nặng về khám chữa bệnh - tức là xử lý hậu quả vì dự phòng yếu.
Với quan điểm coi sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là nền tảng quan trọng nhất cho hạnh phúc của mọi người, cho sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển thịnh vượng, bền vững của đất nước, Nghị quyết số 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân của Bộ Chính trị nhấn mạnh: Trước những yêu cầu cấp bách từ thực tiễn, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân cần được thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức và hành động, đổi mới toàn diện với các giải pháp đột phá để hướng đến mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe, sống lâu, sống khỏe, sống lành mạnh.
Khát vọng thế hệ trẻ Việt Nam xuất sắc về trí tuệ, vượt trội về thể chất
Trong bài viết Tương lai cho thế hệ vươn mình, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Hướng tới năm 2045, dấu mốc trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập nước, mục tiêu chiến lược là Việt Nam phải trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao. Để đạt được điều đó, Việt Nam cần có một thế hệ trẻ không chỉ xuất sắc về trí tuệ mà còn vượt trội về thể chất, giàu bản sắc văn hóa, đủ khả năng cạnh tranh và sánh vai với các cường quốc năm châu, khẳng định vị thế đất nước trên trường quốc tế.”
Tổng Bí thư khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là lấy con người làm nền tảng cho sự phát triển bền vững, vì con người vừa là mục đích cuối cùng, vừa là động lực chính thúc đẩy sự phát triển xã hội. Phát triển con người trở thành vấn đề trọng tâm và mang tính chiến lược quyết định sự thành công của đất nước.
Mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt trong kỷ nguyên mới được Bộ Chính trị cụ thể hóa trong Nghị quyết số 71-NQ/TW và Nghị quyết số 72-NQ/TW với những chỉ số rất cụ thể.
Nghị quyết 71-NQ/TW khẳng định “giáo dục là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc.” Nghị quyết đặt mục tiêu đầy khát vọng: chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á vào năm 2030, lọt tốp 20 quốc gia hàng đầu thế giới vào năm 2045; giáo dục đại học có ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á vào năm 2030, ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực vào năm 2045. Năm 2030, tỷ lệ người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%.
Nghị quyết số 72-NQ/TW khẳng định “bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là mục tiêu, là động lực, là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, giữ vị trí ưu tiên trong các chiến lược, chính sách phát triển.” Nghị quyết yêu cầu “chuyển mạnh từ tư duy tập trung khám bệnh, chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh, chú trọng bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe toàn diện, liên tục theo vòng đời.”
Nghị quyết đặt mục tiêu khám sức khoẻ định kỳ hoặc khám sàng lọc miễn phí cho người dân ít nhất mỗi năm một lần từ 2026; đến năm 2030, đạt bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân, người dân được miễn viện phí ở mức cơ bản, 100% trạm y tế cấp xã được đầu tư cơ sở vật chất và có ít nhất 4-5 bác sỹ. Đến năm 2045, Việt Nam có môi trường sống tốt, hệ thống y tế hiện đại, chỉ số sức khoẻ người dân và dịch vụ y tế ngang tầm các nước phát triển; tầm vóc người việt tương đương các quốc gia cùng mức phát triển; tuổi thọ trung bình đạt trên 80 tuổi, trong đó có trên 71 năm sống khỏe.
Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội nhận định các mục tiêu này nhất quán với quan điểm nhân văn của Đảng là hướng đến phát triển con người, vì chất lượng cuộc sống người dân đồng thời thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Những mục tiêu này cũng là rất cao so với xuất phát điểm của Việt Nam hiện nay, nhưng khả thi.
Cũng theo Giáo sư Hoàng Văn Cường, để hiện thực hóa các mục tiêu, cần phải sớm thể chế hóa các quan điểm, giải pháp đột phá của Bộ Chính trị để tạo hành làng pháp lý triển khai sớm nhất trong thực tiễn.
Đây cũng là yêu cầu được Bộ Chính trị đặt ra với Đảng uỷ Quốc hội trong Nghị quyết 71 và Nghị quyết 72. Cụ thể, tại Nghị quyết 71, Bộ Chính trị giao “Đảng ủy Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện pháp luật về đổi mới, phát triển giáo dục và đào tạo; phối hợp chặt chẽ với Đảng uỷ Chính phủ thể chế hoá thành Nghị quyết đặc thù về một số chủ trương, chính sách nêu trong Nghị quyết này và bố trí đủ nguồn lực để thực hiện ngay từ năm 2025.”
Tại Nghị quyết 72, Bộ Chính trị yêu cầu “Đảng ủy Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để tạo đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân, ưu tiên xem xét, phê duyệt một số luật, nghị quyết, chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 tại Kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XV.”
Và chỉ chưa đầy hai tháng sau khi Bộ Chính trị ban hành hai nghị quyết, dự thảo của các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đã được đặt ra trên nghị trường Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Với vai trò tối cao trong việc thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, Quốc hội đã nỗ lực thảo luận, đóng góp ý kiến để hoàn thiện dự thảo và thông qua 5 dự án luật, 4 nghị quyết liên quan đến giáo dục và y tế.
Các dự thảo dự án luật, nghị quyết về y tế, giáo dục đào tạo là những nội dung được các đại biểu Quốc hội thảo luận nhiều nhất tại nghị trường với hàng trăm ý kiến. Điều đó thể hiện sự quan tâm, sự thống nhất đồng lòng của Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Việt Nam – về việc nâng cao chất lượng cuộc sống người dân một cách toàn diện, cả thể chất và tri thức. Từ đóng góp ý kiến của các đại biểu, các dự thảo đã được chỉnh sửa, hoàn thiện, thông qua.
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh, đây là những bước đi quan trọng để cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, tạo hành lang pháp lý và cơ chế vượt trội cho y tế, giáo dục phát triển mạnh mẽ, để các nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, nhằm mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đất nước trước kỷ nguyên mới./.
Nâng chất lượng nhân lực Việt: Điều kiện tiên quyết để đất nước vươn mình
Trong suốt chiều dài lịch sử, Đảng, Nhà nước luôn chú trọng tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao để đưa đất nước vững bước trong kỷ nguyên mới.