Thống đốc NHNN: Năm 2022, rủi ro lạm phát phải đối mặt với áp lực lớn

Thống đốc cho biết với độ mở lớn của nền kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP là 200% nên Việt Nam cũng phải chịu áp lực rủi ro của lạm phát nhập khẩu.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trả lời chất vấn các đại biểu Quốc hội. (Ảnh: CTV/Vietnam+)

Sáng 12/11, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã giải đáp nhiều nội dung các đại biểu Quốc hội chất vấn liên quan đến lĩnh vực của ngành.

Theo người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, đại dịch COVID-19 tác động nghiêm trọng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người dân. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã quyết liệt thực hiện các chỉ đạo, quyết định của Chính phủ và là một trong những bộ, ngành vào cuộc rất trách nhiệm.

Về dư địa để tiếp tục hạ lãi suất trong thời gian tới, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết chính sách tiền tệ có 2 nhiệm vụ. Thứ nhất, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát. Thứ hai, trong vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, ngành ngân hàng phải đảm bảo hệ thống tín dụng hoạt động an toàn, sẵn sàng khả năng chi trả cho người dân.

[Thống đốc NHNN: Nới lỏng điều kiện cấp tín dụng có thể gia tăng nợ xấu] 

"Để xác định dư địa còn giảm lãi suất tiếp hay không, thời gian vừa qua, khi đánh giá thực trạng hoạt động ngân hàng và kinh tế vĩ mô, chúng tôi thấy năm 2021 khả năng đạt chỉ tiêu lạm phát dưới 4% theo mục tiêu của Quốc hội đề ra là có thể. Hết tháng 10, lạm phát mới tăng 1,81%. Tuy nhiên, sáng năm 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn," Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.

Thống đốc phân tích, thứ nhất, kinh tế thế giới dần phục hồi khi các nước tiêm phủ vaccine. Giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới tăng cao, chẳng hạn như giá xăng dầu tăng 55,2% trong tháng 9/2021 so với năm trước.

Các nước phát triển đang có mức lạm phát cao lịch sử như Mỹ, lạm phát đạt 5,3% trong tháng Chín. Với độ mở lớn của nền kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP là 200% nên Việt Nam cũng phải chịu áp lực rủi ro của lạm phát nhập khẩu.

Ngoài ra, các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng đang thay đổi chính sách tiền tệ, với 65 lượt tăng lãi suất trên toàn thế giới. Chính vì thế, áp lực lạm phát và áp lực điều hành chính sách tiền tệ là rất lớn.

Đối với thị trường trong nước, ngay từ đầu năm 2020, khi đại dịch COVID xảy ra, trong tổ chức điều hành về lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh lãi suất điều hành với tổng mức giảm từ 1,5%-2%. Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.

Ngoài việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo, kêu gọi các tổ chức tín dụng thực hiện giảm các mức lãi suất đối với các khoản cho vay cũ, cho vay mới. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 1,66% so với trước dịch. Lũy kế từ 23/01/2020 đến nay, tổng số tiền lãi các tổ chức tín dụng miễn, giảm cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi COVID-19 khoảng gần 30.000 tỷ đồng. Các tổ chức tín dụng sẽ tiếp tục giảm lãi suất từ nay đến cuối năm 2021.

Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng cũng đã thực hiện giảm phí với mức giảm khoảng hơn 2.000 tỷ đồng đối với khách hàng. Việc giảm lãi suất đã giúp giảm chi phí đầu vào của doanh nghiệp và người dân.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đang gia tăng. Thời gian qua, các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền từ ngân sách. Khi nợ xấu tăng, bản thân các tổ chức tín dụng phải dùng nguồn lực tài chính của mình để xử lý nợ xấu.

“Nếu chúng ta để tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng bị suy giảm sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả và an toàn của hệ thống. Đây là bài học kinh nghiệm rất lớn từ thời gian trước đây khi tăng trưởng tín dụng cao, thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất trong năm 2008 đã có rủi ro lạm phát trong năm 2011 có thời điểm lên tới 18%,” Thống đốc nhấn mạnh.

Cũng theo Thống đốc, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục chỉ đạo toàn hệ thống ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất, song vẫn phải đảm bảo tỷ lệ an toàn của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để tránh tác động lan truyền.

Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ tích cực phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, liều lượng hợp lý trên cơ sở vẫn phải đảm bảo các ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát trong thời gian tới cũng như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục