Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XV: Áp dụng hoàn thuế tự động theo mức độ rủi ro

Ủng hộ sửa đổi luật, song đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) nhận định nhiều vướng mắc hiện nay không xuất phát từ quy định của Luật mà chủ yếu nằm ở khâu tổ chức thực hiện.

Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị Hà Sỹ Đồng phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị Hà Sỹ Đồng phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Chiều 9/12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng.

Tại phiên thảo luận, các đại biểu đưa ra nhiều ý kiến sâu sắc, tập trung vào khắc phục những điểm nghẽn trong tổ chức thực hiện, đặc biệt là cơ chế hoàn thuế chậm trễ và chính sách thuế đối với nông sản, phế phẩm, phụ phẩm, nhằm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn thực tế cho cộng đồng doanh nghiệp. Các ý kiến nhấn mạnh sự cần thiết phải thiết lập các công cụ kỹ thuật và khung pháp lý chặt chẽ, minh bạch hóa để vừa hỗ trợ sản xuất kinh doanh, vừa bảo vệ ngân sách nhà nước.

Thiết lập cơ chế hoàn thuế tự động, có chế tài rõ ràng

Ủng hộ sửa đổi luật, song đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) nhận định nhiều vướng mắc hiện nay không xuất phát từ quy định của Luật mà chủ yếu nằm ở khâu tổ chức thực hiện.

Điển hình là tình trạng thời gian hoàn thuế kéo dài, thiếu công cụ tra cứu minh bạch và sự thiếu thống nhất trong áp dụng chính sách. Đại biểu cho rằng, việc sửa luật quá sớm, khi các văn bản hướng dẫn còn đang hoàn thiện, có thể làm lệch pha chính sách, gây xáo trộn hoạt động sản xuất kinh doanh.

Để giải quyết triệt để nút thắt hoàn thuế, đại biểu Hà Sỹ Đồng kiến nghị phải áp dụng cơ chế hoàn thuế tự động theo mức độ rủi ro, không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu chung chung "rút ngắn thời gian hoàn thuế" như trong báo cáo của Chính phủ.

Cụ thể, cần quy định khung thời hạn cố định cho việc hoàn thuế đối với các doanh nghiệp tuân thủ tốt- ví dụ 30 ngày, trong khi các doanh nghiệp được xếp vào nhóm rủi ro cao sẽ phải kiểm tra trước hoàn.

Đặc biệt, cần thiết lập chế tài cụ thể nếu cơ quan thuế kéo dài thời gian xử lý, gây đọng vốn cho doanh nghiệp.

Việc ứng dụng công nghệ, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo (AI) cũng cần được quy định bằng văn bản chi tiết, chứ không chỉ là khẩu hiệu. Văn bản này phải làm rõ loại dữ liệu nào được kết nối, tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp bảo mật dữ liệu và trách nhiệm cụ thể của từng bên liên quan. Tất cả các nội dung này nhằm bổ sung công cụ kỹ thuật để kiểm soát rủi ro, đảm bảo việc sửa luật thực sự tháo gỡ đúng điểm nghẽn là hoàn thuế còn chậm.

Phân tích tác động của chính sách hoàn thuế lên dòng vốn doanh nghiệp, đại biểu Trần Hữu Hậu (Tây Ninh) nhấn mạnh việc bổ sung nội dung vào khoản 1, điều 5 của Luật sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam giảm được hàng chục ngàn tỷ đồng vốn phải bỏ ra để nộp thuế trước, phải trả lãi vay, rồi sau đó mới được Nhà nước hoàn lại.

Đại biểu khẳng định, dù số tiền thuế cuối cùng được hoàn nhưng về mặt giá trị, doanh nghiệp đã bị mất đi rất nhiều, không chỉ là chi phí trả lãi cho khoản tiền vay nộp thuế - nhiều khi còn không được ngân hàng cho vay, mà còn là lợi nhuận đáng lẽ sinh ra nếu số tiền đó được đưa vào kinh doanh.

Trong bối cảnh nông sản Việt Nam đang đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, dù chỉ là chút ít phần trăm lợi nhuận cũng mang ý nghĩa lớn, giúp doanh nghiệp vững vàng hơn và phát triển.

Hơn nữa, nếu giữ quy định cũ, hàng chục ngàn doanh nghiệp và hàng ngàn cán bộ thuế sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức cho thủ tục hành chính, tạo ra cơ chế "xin – cho" dễ dẫn đến tiêu cực.

Siết chặt quản lý nông sản, phế phẩm bằng công cụ kỹ thuật

Về chính sách thuế đối với nông sản, hàng hóa đặc thù, phế phẩm và phụ phẩm, đại biểu Hà Sỹ Đồng nhận xét báo cáo giải trình còn dài dòng, chưa làm rõ các tiêu chí vận hành cụ thể.

Đại biểu đề nghị Quốc hội yêu cầu quy định rõ ngay trong luật hoặc giao Bộ Tài chính ban hành danh mục hàng hóa chi tiết theo mã HS, kèm theo tiêu chí tỷ lệ xuất khẩu để áp dụng cơ chế "không phải kê khai nhưng được khấu trừ", tránh mở rộng tùy tiện thông qua các văn bản hướng dẫn.

Đồng thời, cần phải có bộ chứng từ tối thiểu bắt buộc, bao gồm hợp đồng, phiếu thu gom, chứng từ vận chuyển, xác nhận của hợp tác xã; kèm theo các mẫu biểu thống nhất nhằm ngăn chặn hành vi mua bán lòng vòng, gian lận.

Đối với phế phẩm, phụ phẩm, đại biểu Hà Sỹ Đồng đề nghị Bộ Tài chính xây dựng một hệ thống mã/tên gọi và tiêu chí phân loại theo mã HS, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp lập bảng kê định mức sản xuất.

Biện pháp này nhằm chống lại hành vi khai thấp giá trị nhằm chuyển doanh thu sang nhóm thuế suất thấp, đây là điểm mà báo cáo giải thích còn lỏng lẻo và cần được siết lại bằng công cụ kỹ thuật.

Đại biểu Trần Hữu Hậu đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa của việc bỏ đi khổ đầu khoản 5, Điều 9, khẳng định việc này sẽ tạo điều kiện cho hàng chục ngàn cơ sở chế biến nông sản, thủy sản có thêm điều kiện tiêu thụ các chất thải ra như cám, bã rượu, bã bia, bã sắn, bã dứa, rỉ mật đường, vỏ tôm...

Qua đó, không chỉ giúp các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi giảm chi phí đầu vào, giảm giá bán thức ăn chăn nuôi và bình đẳng với nguyên liệu nhập khẩu như Chính phủ đã giải trình, mà còn giúp tăng hiệu quả chế biến, góp phần giải quyết vấn nạn môi trường, thực hiện đúng chủ trương sản xuất xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn.

Chỉ riêng ngành sắn, mỗi năm thải ra hơn 4 triệu tấn bã sắn - một nguồn gây ô nhiễm lớn cho doanh nghiệp và địa phương. Nếu bã sắn không chịu thuế giá trị gia tăng, nó sẽ có thêm điều kiện trở thành thức ăn chăn nuôi, đem lại giá trị và hiệu quả kinh tế lớn về nhiều mặt.

Các đại biểu đều đồng tình với đề xuất bỏ đi điểm c, khoản 9, Điều 15 về điều kiện hoàn thuế (yêu cầu "người bán đã kê khai, nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định đối với hóa đơn đã xuất cho cơ sở kinh doanh đề nghị hoàn thuế").

Đại biểu Trần Hữu Hậu nêu ý kiến, quy định hiện hành là vô lý và gây rủi ro lớn vì đã "giải phóng" doanh nghiệp khỏi một trách nhiệm nhiều khi "bất khả thi": kiểm tra tình trạng tuân thủ thuế của người bán. Người mua và người bán là hai chủ thể độc lập và người mua không có quyền, không có công cụ để kiểm tra và can thiệp vào nghĩa vụ thuế của người bán. Doanh nghiệp không thể chịu trách nhiệm về sự tuân thủ của người khác và không thể chỉ được nhận tiền hoàn thuế khi người bán đã kê khai, nộp thuế, bởi trách nhiệm thu thuế là của cơ quan thuế.

Đại biểu Trần Hữu Hậu khẳng định, mặc dù quy định hiện hành có mục đích chính là chống gian lận hóa đơn và bảo đảm nguồn thu ngân sách, nhưng không thể chỉ vì ngăn chặn hành vi gian lận của một số doanh nghiệp mà bắt phần đông doanh nghiệp nghiêm túc phải gặp khó khăn, thiệt thòi.

Đồng tình với việc bãi bỏ điều kiện này, đại biểu Hà Sỹ Đồng yêu cầu phải đồng thời thiết lập cơ chế bảo vệ ngân sách và doanh nghiệp. Nếu Quốc hội xem xét bãi bỏ điều kiện "người bán đã kê khai, nộp thuế", cần thiết lập ngay cổng tra cứu công khai tình trạng tuân thủ thuế của người bán, có API cho ngân hàng và doanh nghiệp sử dụng. Hơn nữa, cần đưa tiêu chí lịch sử tuân thủ thuế của người bán vào cơ chế hoàn tự động để phân loại rủi ro…/.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục