Sáng 16/2, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Theo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, trong 10 năm qua, thành phố đã ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ vào lĩnh vực hành chính công, trong đó các địa phương chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các dịch vụ công.
Trong khi đó, trình độ công nghệ của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp từng bước được nâng cao và cải thiện qua từng giai đoạn. Tỷ lệ doanh nghiệp có trình độ công nghệ lạc hậu ngày càng giảm, tỷ lệ doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình và trung bình tiên tiến ngày càng tăng. Từ đó cho thấy, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng đi từ nghiên cứu và phát triển đến sản xuất sản phẩm đã đem lại hiệu quả.
Tốc độ đổi mới công nghệ và thiết bị chung của thành phố xét trong cả giai đoạn 2016-2020 là 18,85 %/năm, có sự cải thiện đáng kể so với giai đoạn trước năm 2016 (15%/năm). Tổng chi phí mua sắm máy móc thiết bị trung bình khoảng 20.600 tỷ đồng/năm.
Hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2012-2021 đã đạt được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện, góp phần tạo chuyển biến tích cực cho kinh tế thành phố. Kết quả này được thể hiện thông qua chỉ số năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) luôn ở mức cao, đạt trung bình 35,62%, trong đó đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng trưởng TFP là 74%.
Trong giai đoạn 2011-2021, năng suất lao động xã hội của thành phố cao hơn 2,7 lần so với cả nước; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội cao gấp 1,7 lần so với cả nước.
[Ứng dụng khoa học và công nghệ trên tinh thần chấp nhận rủi ro]
Tuy nhiên, Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Nguyễn Hồ Hải cho rằng bên cạnh kết quả đạt được, nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Thành phố có nhiều giải pháp nhưng phát triển khoa học và công nghệ vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, quản lý đô thị của thành phố và chưa thực sự trở thành động lực phát triển.
Do đó, ông Nguyễn Hồ Hải đề nghị Đảng đoàn Hội đồng Nhân dân, Ban Cán sự đảng Ủy ban Nhân dân thành phố chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu ban hành các cơ chế, chính sách, trong đó tập trung đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.
Thành phố tiếp tục đầu tư cải thiện hạ tầng khoa học và công nghệ, tăng cường trang thiết bị nghiên cứu, nâng cao hiệu quả hoạt động của các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành; phát triển thị trường khoa học và công nghệ và sở hữu trí tuệ; phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo…
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho rằng Thành phố Hồ Chí Minh có hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp, chiếm khoảng 50% cả nước, đây là điểm cần quan tâm trong thời gian tới.
Tổng mức đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng phải đạt 2% GRDP trở lên, tuy nhiên, ngân sách nhà nước rất khó để chi đạt được mức trên. Do đó, thành phố cần chú trọng xã hội hóa nguồn lực đầu tư, đặc biệt là thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo hiểm cho lĩnh vực khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
Về mục tiêu, giải pháp thời gian tới, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh xác định tiếp tục giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, đi đầu trong thực hiện mô hình tăng trưởng mới, phát triển mạnh kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn. Khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo được phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng kinh tế-xã hội. Thúc đẩy ứng dụng nền tảng công nghệ trong xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có trọng tâm, trọng điểm nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.
Mục tiêu của thành phố đến năm 2025 trở thành đô thị thông minh, thành phố dịch vụ, công nghiệp theo hướng hiện đại, giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế, động lực tăng trưởng của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước, đi đầu trong đổi mới sáng tạo.
Thành phố phấn đấu kinh tế số đóng góp khoảng 40% trong GRDP, tỷ trọng đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GRDP đến năm 2030 đạt từ 50% trở lên.
Thành phố chi đầu tư cho khoa học và công nghệ của xã hội đạt bình quân trên 1%/GRDP trở lên, trong đó chỉ cho nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm từ 65% trở lên. Đến năm 2030, có 5 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới, tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp, tỷ trọng giao dịch công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học đạt trên 40% trong tổng giao dịch công nghệ có nguồn gốc trong nước.
Thành phố sẽ tập trung đổi mới hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ, tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp trong thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực.
Thành phố thúc đẩy đào tạo, phát huy nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ phát triển thành phố; thực hiện tốt việc sử dụng, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ; mở rộng hợp tác quốc tế và kết nối, thu hút hiệu quả lực lượng khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài./.