Vedan "bác" ý kiến góp 89% chất "giết" sông Thị Vải

Cuộc họp các bên liên quan vụ Vedan xả thải ô nhiễm sông Thị Vải kết thúc nhưng DN này không đồng ý đã góp 89% ô nhiễm dòng sông này.
Sau hơn một năm bị phát hiện xả lén nước thải ra sông Thị Vải (tháng 9/2008), ngày 11/12 /2009, đại diện Viện Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường, các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh và đại diện Vedan đã cùng họp nhằm xác định mức độ gây ô nhiễm của công ty này thời gian qua.

Ô nhiễm kéo dài 11km

Qua nhiều tháng quan trắc, phân tích dựa trên 3 kịch bản, Viện Môi trường và Tài nguyên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) kết luận sông Thị Vải bắt đầu bị ô nhiễm từ khoảng năm 1994, ngay sau khi Công ty Vedan đi vào hoạt động với phạm vi và mức độ ô nhiễm ngày một gia tăng.

Thực tế cho thấy, các nguồn gây ô nhiễm đối với sông Thị Vải chủ yếu là từ các cơ sở sản xuất và các khu công nghiệp trên lưu vực, trong đó công ty Vedan góp một tỷ lệ khá lớn. Theo báo cáo của Thanh tra Tổng cục Môi trường năm 2006 và 2008, trong điều kiện Vedan xả thải bình thường, nước thải của đơn vị này cũng chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số tất cả nguồn xả thải từ công nghiệp ra sông Thị Vải.

Đặc biệt, khi Vedan xả lén dịch thải lên men ra sông Thị Vải và bị phát hiện, lập biên bản vào tháng 9/2008, riêng phần dịch này đã chiếm tới trên 95% tổng tải lượng các chất ô nhiễm như BOD, COD, TSS, N-H4+, tổng P từ tất cả các nguồn xả thải sông Thị Vải gộp lại.

Từ khi Vedan không tiếp tục xả dịch thải ra sông, giảm bớt quy mô sản xuất, đầu tư cải thiện các hệ thống xử lý nước thải, các Khu công nghiệp trên lưu vực cũng có biện pháp khắc phục ô nhiễm và nhất là lượng nước lũ cao năm 2008 từ các nhánh suối phía thượng nguồn đổ ra, sông Thị Vải đã dần phục hồi.

Sau khi xem xét, phân tích kỹ, Viện Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường và 3 địa phương liên quan (Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh) nhận định Công ty Vedan "đóng góp" khoảng 89% ô nhiễm sông Thị Vải trên chiều dài 10-11km. Phần còn lại là từ các khu công nghiệp, doanh nghiệp khác trong khu vực.

Vẫn phải chờ…

Tuy nhiên, đại diện phía Công ty Vedan, ông Yang Kun Hsiang không đồng ý với đánh giá nêu trên. Đơn vị này đề nghị tiếp tục làm việc với các cơ quan liên quan để xác định mức độ “đóng góp” cụ thể.

Trả lời báo giới về việc các nhà khoa học của Vedan khi tính toán, xác định mức độ ô nhiễm là bao nhiêu %, thì phía Vedan chưa đưa ra con số cụ thể.

Phía Vedan thừa nhận việc từng gây ô nhiễm nặng dòng chính của sông Thị Vải khoảng 10-11km và đề nghị tiếp tục phối hợp, làm rõ việc xác định phạm vi ô nhiễm do Vedan gây ra với các dòng nhánh và khu vực liên quan.

Như vậy, vẫn cần một khoảng thời gian nữa để các cơ quan liên quan đưa ra con số cụ thể, xác định mức độ ô nhiễm và ảnh hưởng môi trường của Vedan với sông Thị Vải.

Các thành viên tham dự cuộc họp đã thống nhất kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm công bố kết quả. Từ đó, các tỉnh có liên quan thống kê thiệt hại về kinh tế, môi trường để yêu cầu Vedan bồi thường./.
Các nhà khoa học chia khu vực bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm nước sông Thị Vải thành 2 vùng:

 Vùng bị ảnh hưởng nặng gồm một phần của các xã: Phước An, Long Thọ  (huyện Nhơn Trạch) và các xã Long Phước, Phước Thái (huyện Long Thành) của tỉnh Đồng Nai; các xã Mỹ Xuân, thị trấn Phú Mỹ, Tân Phước thuộc huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tổng diện tích tự nhiên của vùng này là 157,9km2, trong đó có hơn 1.990 ha đất nuôi trồng thủy sản. Vùng này bị ảnh hưởng do nồng độ các chất ô nhiễm như DO, BOD5, COD, N-NH4+, NO2-, đủ gây chết hoặc làm chậm sự phát triển của thủy sản tự nhiên hoặc nuôi trồng với tần suất xuất hiện trong các mẫu kết quả quan trắc từ 85% trở lên.

Vùng bị ảnh hưởng nhẹ gồm một phần xã Phước An (Nhơn Trạch, Đồng Nai); một phần xã Tân Phước và Phước Hòa (Tân Thành, Bà Rịa – Vũng Tàu) và một phần xã Thạch An (Cần Giờ, Tp HCM). Vùng này cũng bị ảnh hưởng do nồng độ các chất ô nhiễm như DO, BOD5, COD, N-NH4+, NO2-, không phù hợp với điều kiện nuôi trồng thủy sản hoặc ảnh hưởng đến sự phát triển của thủy sản tự nhiên với tần suất xuất hiện trong các mẫu kết quả quan trắc khoảng 50%.
Trung Hiền (Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục