
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển là những quốc gia có nhu cầu rất lớn về tài nguyên khoáng sản để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, công tác quy hoạch, cấp phép và việc chấp hành các quy định pháp luật trong quá trình khai thác khoáng sản của các chủ mỏ ở Việt Nam hiện vẫn còn những bất cập, lỏng lẻo, nảy sinh nhiều sai phạm trong thời gian gần đây.
Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản hiện nay đang được xã hội hóa với tốc độ cao, vì vậy cần thiết phải có hành lang pháp lý vững chắc và môi trường đầu tư an toàn trong hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản, cũng như về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản.
Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép vẫn diễn biến phức tạp
Liên tiếp trong thời gian gần đây, nhiều vụ khai thác khoáng sản trái phép đã được phát hiện và xử ly tại nhiều địa phương trong cả nước.
Tại Lâm Đồng, vào đầu tháng 12/2021, lực lượng chức năng tỉnh Lâm Đồng phát hiện, bắt quả tang nhóm người đưa máy móc vào đào bới trong khu vực giáp ranh giữa hai xã Tà Năng và Đa Quyn.
Sau khi lập biên bản vụ việc khai thác và tuyển quặng vàng trái phép, Công an huyện Đức Trọng tạm giữ phương tiện gồm ba xe múc đất của Công ty Hoa Phượng Đỏ, có trụ sở tại xã Đà Loan (huyện Đức Trọng) chờ xử lý.

Ngày 5/12/2022, thông tin từ Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa cho biết đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty cổ phần giống gia súc Thanh Ninh (khu phố 8, phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn) với số tiền 650 triệu đồng, do nhiều lần công ty vi phạm khai thác mỏ đá vượt công suất.
Cụ thể, công ty đã khai thác vượt công suất được phép khai thác đá hàng năm nêu trong Giấy phép khai thác khoáng sản số 203/GP-UBND ngày 27/5/2016 từ 50% đến dưới 100%.
Trong đó, năm 2020, công ty khai thác vượt 69,6%; năm 2021 vượt 47,4%. Đặc biệt, công ty được xác định có tình tiết tăng nặng là vi phạm nhiều lần.
Trước đó, ngày 25/7/2022, Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Yên cho biết Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hồ Thị Nguyên Thảo vừa ký ban hành Quyết định số 864 /QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty cổ phần Xây dựng-Thương mại Tú Mai với số vì đã có hành vi vi phạm hành chính khai thác khoáng sản mà không có giấy phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Đoàn công tác đã xác định trong thời gian từ ngày 28/4/2022 đến ngày 19/5/2022 Công ty Tú Mai có địa chỉ tại thôn Đồng Phú, xã Đức Bình Tây, huyện Sông Hinh đã có hành vi khai thác đá granit trái phép trên diện tích 0,2ha, múc lại số lượng đá đã chôn lấp trước đây và khoan tách, lấy 9 block đá trong phạm vi 960m2, nằm rải rác rất nhiều vị trí khác nhau, đưa về bãi tập kết của Nhà máy đá Granit của công ty, với khối lượng 35,861m3.
[Khai thác địa chất, khoáng sản bền vững đáp ứng tình hình mới]
Tại Nghệ An, liên quan vụ việc khai thác đá trái phép tại xóm Kèn, xã Châu Lộc, huyện Quỳ Hợp, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Nghệ An đã xem xét, thi hành kỷ luật với nhiều cán bộ, đảng viên.
Cụ thể, ông Nguyễn Đình Tùng, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Quỳ Hợp đã thiếu kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới nên không kịp thời phát hiện để có biện pháp xử lý dứt điểm việc khai thác đá trái phép tại xóm Kèn, xã Châu Lộc.
Ông Lê Sỹ Hào, Huyện ủy viên, Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Quỳ Hợp đã thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; không kịp thời báo cáo lãnh đạo ủy ban nhân dân huyện về kết quả kiểm tra việc khai thác đá trái phép tại xóm Kèn, xã Châu Lộc.
Khai thác khoáng sản cần gắn với bảo vệ môi trường
Khai thác khoáng sản và bảo vệ môi trường là hai lĩnh vực luôn đối nghịch với nhau bởi đã khai thác khoáng sản thì không thể tránh khỏi ảnh hưởng đến môi trường. Do vậy, việc giảm thiểu tối đa tác động xấu đến môi trường khi khai thác khoáng sản là vấn đề đang được toàn xã hội quan tâm.
Để đạt được mục đích cả về lợi ích kinh tế lẫn bảo vệ môi trường, ngoài việc thực hiện theo pháp luật, cụ thể là Luật Tài nguyên môi trường thì các nhà đầu tư, các đơn vị khai thác khoáng sản cần nghiêm túc thực hiện, chú trọng đầu tư về công nghệ khai thác nhằm bảo vệ môi trường và khai thác khoáng sản bền vững.
Đơn cử như tại tỉnh Bình Thuận, trữ lượng titan vào khoảng 600 triệu tấn, chiếm hơn 90% trữ lượng titan cả nước. Tuy nhiên, thời gian qua, sau khi hàng loạt dự án khai thác titan ở địa phương đã được cấp phép thì xuất hiện nhiều bất cập cũng như các sự cố về môi trường, gây bức xúc trong dư luận.
Đánh giá về tình hình quản lý khai thác khoáng sản trên địa bàn, bà Phan Thị Xuân Thu, Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Thuận, cho biết đến nay, trên địa bàn tỉnh có 96 Giấy phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường còn hiệu lực, trong đó có 22 mỏ đá xây dựng, 20 mỏ cát xây dựng, 19 mỏ sét gạch ngói và 35 mỏ vật liệu san lấp; có 58 mỏ đang hoạt động khai thác, 38 mỏ dừng hoặc chưa khai thác.
Tỉnh còn 6 Giấy phép khai thác khoáng sản titan còn hiệu lực với tổng diện tích 2.207 ha; có 3 mỏ đang khai thác, 1 mỏ đang bị dừng khai thác, 1 mỏ chưa được triển khai xây dựng cơ bản và 1 mỏ được chủ đầu tư đề nghị trả lại.
Theo quy định, các mỏ titan thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường, định kỳ Bộ này sẽ ban hành kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định pháp luật trong hoạt động khai thác khoáng sản.
Các dự án thăm dò, khai thác quặng titan khi được quy hoạch đã có chồng lấn với các dự án, quy hoạch khác trước đó nhưng chưa được xử lý, vùng quy hoạch phần lớn nằm dọc ven biển. Thực tế cho thấy khai thác quặng titan có thể gây ra tác động bất lợi cho các ngành kinh tế khác (du lịch, nông nghiệp) ảnh hưởng đến cuộc sống người dân và môi trường ven biển.
Hơn nữa, việc khai thác mỏ còn tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan đến an toàn lao động. Đặc biệt, để khai thác titan thì người lao động phải làm việc trong địa hình toàn cát dễ sụt lún và do việc áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn lao động thường không được chú trọng nên đã xảy ra nhiều sự cố đáng tiếc.
Điển hình, gần đây đã có vụ sạt lở cát khiến 4 công nhân thiệt mạng tại khu vực mỏ titan Nam Suối Nhum (xã Thuận Quý, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận) của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Tân Quang Cường.
Bà Phan Thị Xuân Thu cho biết nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn liên quan đến việc chồng lấn các dự án khai khoáng trên cả nước, ngày 1/4/2021, Chính phủ ban hành Nghị định 51/NĐ-CP về quản lý khai thác khoáng sản tại các khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia.
Các quy định mới sẽ cho phép tỉnh Bình Thuận thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội trên các khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia; đồng thời cho phép điều chỉnh diện tích, đưa ra ngoài diện tích vùng dự trữ khoáng sản quốc gia đã được phê duyệt.
Hơn nữa để khắc phục các khó khăn, tồn tại nhằm khai thác tốt các loại tài nguyên khoáng sản hiện có, phục vụ quá trình phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Bà Phan Thị Xuân Thu cho biết tỉnh sẽ rà soát hiện trạng toàn bộ các mỏ khoáng sản làm hồ chứa nước đang khai thác và đã kết thúc khai thác, tham mưu với Ủy ban Nhân dân tỉnh biện pháp nhằm tăng cường cải tạo, phục hồi môi trường tại những khu vực này.
Cùng quan điểm trên, ông Lương Thanh Sơn, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Bình Thuận cho rằng các dự án khai thác, chế biến titan cần được nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp về nguồn nước khai thác tại từng khu vực cụ thể để xem xét áp dụng các biện pháp thu gom nước ngọt vào mùa mưa trong khu vực khai thác và ứng dụng triệt để công nghệ khai thác sử dụng nước hoàn lưu, tiết kiệm nước trong khai thác và trồng cây hoàn phục môi trường.
Bãi thải cát thô được hoàn thổ ngay trong quá trình khai thác theo hình thức cuốn chiều tạo nên mặt bằng và triển khai trồng cây và chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật tạo thảm xanh thực vật và chống cát bay, tạo ra cảnh quan mới ngay trong các khu đã và đang khai thác.
Tại Việt Nam, với khoảng 4.000 điểm khai thác trên toàn quốc, việc khai thác lộ thiên đã và đang để lại những bãi thải là “đất sau khai thác.” Đất trồng trọt ngày càng trở nên khan hiếm, do vậy một lựa chọn phù hợp là thúc đẩy trồng cây năng lượng ở những bãi thải mỏ sau khai thác.
Bà Nguyễn Thị Phương Mai, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường nêu ý kiến các bãi thải mỏ hầu hết là những khu vực đất nghèo dinh dưỡng, đất trống nên việc đưa cây năng lượng vào đó sẽ giúp mở rộng diện tích trồng cây, phủ xanh đất trống, chống xói mòn, tăng tính đa dạng sinh học, góp phần giảm thiểu khí nhà kính.
Bên cạnh đó, việc sử dụng các loại cây trồng năng lượng góp phần nâng cao giá trị kinh tế khu vực bãi thải mỏ bằng cách tạo nguồn năng lượng mới như: khí sinh học, nhiên liệu sinh học để chế biến nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện… và tạo nguồn thức ăn chủ động cho gia súc trong điều kiện đất canh tác có hạn.
Việc trồng thử nghiệm cho thấy một số loại cây trồng đã thể hiện tiềm năng sinh trưởng như cỏ VA06, keo lai Australia, sắn xen với đậu xanh, keo xen với cốt khí. Tuy nhiên, tốc độ sinh trưởng và năng suất sinh khối của các loại cây cũng dao động lớn, phụ thuộc vào tính chất vật lý, hóa học của khu vực bãi thải.
Khai thác khoáng sản bền vững, hiệu quả
Việt Nam xếp thứ 15 trên thế giới về diện tích khoáng sản, xếp thứ 65 về tuổi địa chất, có 60/200 loại khoáng sản phổ biến trên thế giới. Đặc biệt, một số loại khoáng sản quy mô trữ lượng đáng kể, tầm cỡ thế giới, có ý nghĩa chiến lược và là nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội.
So với các nước khu vực Đông Nam Á và thế giới, Việt Nam có diện tích đất liền không lớn, nhưng có vị trí địa chất, địa lý thuận lợi cho sự hình thành và phát triển khoáng sản; một số loại khoáng sản có trữ lượng đáng kể.

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nguồn tài nguyên khoáng sản của Việt Nam khá đa dạng và phong phú với trên 5000 mỏ, điểm quặng của khoảng 60 loại khoáng sản khác nhau nằm phân bố rải rác tại 46/63 tỉnh thành trên cả nước.
Một số địa phương có trữ lượng khoáng sản đa dạng về chủng loại được cấp phép khai thác như Thái Nguyên (có 19 loại khoáng sản rắn), Sơn La (14 loại), Quảng Bình, Quảng Trị, Gia Lai, Hải Phòng, Yên Bái... Ngoài ra, còn có 18 khu vực có lượng khoáng sản phân tán nhỏ lẻ trên tổng diện tích 182,7ha phân bố tại các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Hải Dương, Nghệ An, Quảng Nam.
Trung bình mỗi năm, ngành công nghiệp khai khoáng Việt Nam cung cấp cho nền kinh tế khoảng 90 triệu tấn đá vôi ximăng, khoảng 70 triệu m3 đá vật liệu xây dựng thông thường, gần 100 triệu m3 cát xây dựng, cát san lấp, trên 45 triệu tấn than, trên 3 triệu tấn quặng sắt.
Báo cáo tổng kết công tác năm 2022, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam Lại Hồng Thanh cho biết tính đến ngày 20/12/2022, Tổng cục đã hoàn thành thẩm định hồ sơ, trình Bộ ký ban hành 104 Giấy phép Quyết định về cấp phép hoạt động khoáng sản và đóng cửa mỏ khoáng sản, bao gồm 20 Giấy phép thăm dò khoáng sản; 29 Giấy phép khai thác khoáng sản; 15 Quyết định phê duyệt Đề án đóng cửa mỏ khoáng sản; 40 Quyết định đóng cửa mỏ khoáng sản.
Về công tác thanh, kiểm tra hoạt động khoáng sản, Tổng cục đã phối hợp với Thanh tra Bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra công tác quản lý, cấp phép, khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường trên địa bàn các tỉnh Kiên Giang và Khánh Hòa; tham gia Đoàn kiểm tra của Bộ kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoáng sản trong công tác đấu giá quyền khai thác khoáng sản, khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản và cấp giấy phép hoạt động khoáng sản tại các tỉnh như Lào Cai, Thái Nguyên, Yên Bái, Quảng Bình, Gia Lai, Kon Tum, Bến Tre, Đồng Tháp, Long An, Trà Vinh.
Tổng cục cũng kiểm tra đột xuất 11 cuộc tại các tỉnh phía Bắc và 30 cuộc tại các tỉnh phía Nam theo đơn thư phản ánh của người dân, báo chí và yêu cầu quản lý nhà nước về khoáng sản.
Tính đến ngày 15/12/2022, Tổng cục đã ban hành 74 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 72 tổ chức, trong đó 64 Quyết định đã được các tổ chức thi hành.
Về công tác điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản, Tổng cục triển khai 4 Đề án Chính phủ đã được kiểm tra thi công thực địa và chuẩn bị nghiệm thu theo đúng kế hoạch năm 2022 như Đề án “Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1/50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế-xã hội;" Đề án “Đánh giá tổng thể tiềm năng khoáng sản Trung Trung Bộ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội;" Đề án “Điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất, địa chất công trình, đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng lãnh thổ, phục vụ xây dựng và phát triển hạ tầng dải ven bờ biển Việt Nam;" Đề án Bay đo từ-trọng lực tỷ lệ 1:250.000 biển và hải đảo Việt Nam.
Công tác giám sát thi công các đề án điều tra, thăm dò được thực hiện theo đúng quy định. Tổng cục đã ủy quyền cho các đơn vị trực thuộc Tổng cục giám sát trên 30 đề án thăm dò và chuyển 38 Báo cáo giám sát cho Hội đồng đánh giá trữ lượng quốc gia làm cơ sở thẩm định, phê duyệt báo cáo thăm dò.
Trước đó, ngày 10/2/2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Mục tiêu cụ thể của Nghị quyết này là hoàn thành hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về địa chất, khoáng sản đồng bộ, tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia; hoàn thành công tác điều tra cơ bản đối với các tài nguyên địa chất khác; hình thành nền công nghiệp khai khoáng tiên tiến, hiện đại gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh tương đương với các nước tiên tiến khu vực châu Á./.